What's new
Vietnam - Điện Biên Phủ Kinh Tế

This is a sample guest message. Register a free account today to become a member! Once signed in, you'll be able to participate on this site by adding your own topics and posts, as well as connect with other members through your own private inbox!

Tầm nhìn, nhiệm vụ, tư tưởng, giá trị cốt lõi

T

Trungvlkt

Guest
Tầm nhìn

Trong ngắn hạn, ESPromote sẽ trở thành tổ chức tin cậy hàng đầu về

- Sharing information
- Connect opportunities
- Promote investment


ESPromote cho phép sự hợp tác đa chiều (giữa các công ty - các trường đại học - các nhà đầu tư) và hợp tác đa ngành (software, web-internet, hardware, electronics, embedded system, automatic control, automotive, telecommunication ...)

Về dài hạn, ESPromote sẽ trở thành một tổ chức với các tính chất gồm

- Association: Hoạt động như một hiệp hội về công nghệ - thương mại - đầu tư. Là nơi quy tụ đông đảo các công ty, các trường đại học và trung tâm nghiên cứu. các nhà đầu tư ... cùng nhau hợp tác phát triển

- Corporation: Giống như một tổng công ty với nhiều công ty thành viên. Tổng công ty sẽ cung cấp tất cả các dịch vụ đảm bảo kinh doanh cho các công ty thành viên như: IT, Administration, Finance, Human Resource Management, Sale, Marketing, R&D ... và cả thương hiệu. Các công ty thành viên không phải phí công sức thực hiện các hoạt động phụ trợ trong kinh doanh mà sẽ dồn toàn bộ sức lực vào công việc cốt lõi sinh ra lợi nhuận để đem lại added-value cao nhất. Dự kiến mức "thuế" mà các công ty thành viên phải đóng cho tổng công ty là 30% doanh thu để có thể nhận mọi dịch vụ đảm bảo kinh doanh từ tổng công ty

- Invesment Venture Fund: là một quỹ đầu tư mạo hiểm, chuyên đầu tư về mảng công nghệ. Khi có một công nghệ tiềm năng để thương mại hóa thì có thể nhanh chóng rót vốn, lập công ty thuộc espromote. Hoặc có thể đầu tư vào các công ty công nghệ tiềm năng ở ngoài

Note: Một bước đệm trước khi có thể hình thành một Corporation là tạo ra một sự liên kết chặt chẽ giữa các công ty nhỏ. Bình thường các công ty chia nhỏ để linh hoạt và chia sẻ, "dùng chung" nhiều dịch vụ đảm bảo kinh doanh để giảm thiểu chi phí kinh doanh. Khi cần thiết, các công ty lập tức tập hợp lại để có đủ nguồn lực thực hiện các dự án lớn. Thực hiện xong lại giải tán, chia nhỏ. Liên tưởng một chút thì thấy cái này như là chiến thuật "ngụ binh ư nông". Bình thường thì "quân lính" cày cấy làm ăn nhỏ ở nhà, nhưng khi cần sẵn sàng tập hợp thành những đội quân lớn đánh các trận lớn. Giải pháp này giải quyết bài toán của các công ty nhỏ: dự án lớn không dám nhận vì không đủ nhân lực, tuyển người đủ nhân lực thì sau khi xong dự án lớn lại không nuôi nổi

Tư tưởng

Technology - heart of your company

Khi làm việc ở mỗi công ty thì bạn thường chỉ tập trung vào một vài công nghệ nào đó, khó có điều kiên tiếp cận các công nghệ khác. Hơn nữa, dù bạn có giỏi đến mức nào thì cũng chẳng thể nghiên cứu - tiếp cận với hết các công nghệ. Chi bằng mỗi người hãy cứ nghiên cứu hướng công nghệ mà họ đang trực tiếp làm việc ở công ty - tổ chức và trở thành chuyên gia trong lĩnh vực đó. Sau đó cùng chia sẻ tri thức với nhau. Vậy là mỗi người đi một bước cho cộng đồng, sẽ giúp cho cộng đồng và bản thân người đó tiến lên 10 bước. Trong thời đại khoa học công nghệ tiến nhanh như vũ bão, có cách đi nào nhanh hơn cách chia sẻ tri thức chăng ? Hãy đến conference, làm quen, chia sẻ và nhận thông tin

Relationship - Catalyst of your business

Ngoài ra, trong thời đại khoa học công nghệ tiến nhanh như vậy đẻ ra vô số cơ hội làm ăn nhưng cũng đòi hỏi vố số năng lực, skill, tri thức … mà không một ai có thể tích lũy đủ, xu thế hợp tác là tất yếu. Chẳng có ai tự mình làm tất cả. Cộng đồng espromote sẽ cung cấp cho bạn mối quan hệ với các nhà kỹ thuật - nhà đầu tư - nhà giáo dục – các chuyên gia sale, marketing nhờ có nhiều anh em đến từ nhiều công ty - tổ chức - lĩnh vực khác nhau

Mặc dù phổ biến là bạn đến tham dự espromote conference mà chẳng hiểu gì về công nghệ sẽ được thảo luận. Nhưng chí ít thì nó cũng sẽ cung cấp cho bạn ý niệm về công nghệ đó để bạn dễ dàng đón nhận trong tương lai. Hơn nữa, nó còn cung cấp danh sách các mối quan hệ - danh sách những người liên quan đến công nghệ đó để bạn sẵn sàng hợp tác sau này. Hiển nhiên là, dù 2 người nào đó không thể hợp tác với nhau được ngay, nhưng sự quen - chia sẻ với nhau ngay từ bây giờ tại espromote sẽ tạo niềm tin rất lớn cho sự hợp tác trong tương lai


1 + 1 = 3
Bạn đã bao giờ nghe thấy hằng đẳng thức 1 + 1 = 3 chưa. Hằng đẳng thức này hàm chứa toàn bộ ý tưởng nằm đằng sau espromote. Đó là, khi chúng ta hợp tác được thì sẽ khắc phục được điểm yếu, tăng cường những điểm mạnh của nhau, khiến sức mạnh tổng thể tăng lên gấp bội. Cố nhiên, 1 + 1 = 3 chỉ có thể xảy ra khi chúng ta hợp tác trên tinh thần lâu dài - đồng đội

Nhiệm vụ
- Sharing
  • Technology
  • Process, model, tip ... in management, sale, training, do project
  • Relationship
  • Human resource
  • Equipment
  • Other information
- Connect
  • Co-operation in project
  • Co-operation in human resource training
  • Co-operation in sale, marketing
  • Ký các thỏa thuận parter, đối tác chiến lược
- Promote investment
  • Bring the capital, fund to your company and university
Giá trị cốt lõi

- Open (cởi mở, chia sẻ)
- Tôn trọng, tự trọng, thật thà
- Tính lâu dài, tin tưởng trong các mối quan hệ


Strategy of Espromote

- Espromote không phát triển theo hướng số lượng thành viên, mà phát triển theo chất lượng các mối quan hệ tao lập được trong espromote. Đơn giản là, anh em càng quen được nhau nhiều, càng thân thiết với nhau, càng hợp tác với nhau càng nhiều càng tốt

- Phương châm của việc hợp tác là: quen --> chia sẻ --> tin tưởng --> hợp tác
 
Last edited by a moderator:
Tư tưởng về mô hình cộng tác trong doanh nghiệp công nghệ

Trong quá trình làm việc tại Việt Nam, tôi cùng bạn bè thường hay suy nghĩ về mô hình nào là tốt nhất để triển khai trong các doanh nghiệp/dự án về công nghệ. Hiện tại chung tôi đang nhận thấy mô hình có 4 thành phần sau là hiệu quả nhất:

Mô hình 4 thành phần trong doanh nghiệp công nghệ:

1. Nhà công nghệ: 25% cổ phần
- Nhà công nghệ là những người đóng góp vào doanh nhiệp/dự án các dự án. Đó có thể là các nhà khoa học, các nhà công nghệ, hoặc các đơn vị sở hữu công nghệ chuyển giao công nghệ đó cho doanh nghiệp/dự án.

2. Nhà đầu tư: 25% cổ phần
- Đây là những cá nhân, tổ chức góp tiền vào doanh nghiệp/dự án.

3. Nhà truyền thông, marketing, bảo trợ, xúc tác ...: 25% cổ phần
- Đây là những cá nhân, đơn vị làm về truyền thông, marketing. Đó cũng có thể là các nhà bảo trợ, xúc tiến về mặt cơ chế chính sách để giúp cho doanh nghiệp/dự án vận hành trơn tru, ít trở ngại.

4. Những người làm trực tiếp: 25% cổ phần
- Đó là những người thuộc ban giám đốc doanh nghiệp/dự án, các chức danh chủ chốt, cán bộ và công nhân viên.


Phân tích các ưu điểm của mô hình trên:
- Mô hình trên tối ưu hóa, cân bằng lợi ích giữa các đối tượng, phối hợp được tối đa điểm mạnh của các đối tượng. Chẳng hạn:

  • Cổ phần trên đủ cho các nhà công nghệ và người làm trực tiếp đủ hứng thú để cống hiến hết mình trí tuệ của họ vào doanh nghiệp.
  • Các nhà đầu tư không chiếm quá nhiều cổ phần để kích thích các đối tượng còn lại cống hiến, qua đó làm tăng năng suất hiệu quả doanh nghiệp, dẫn đến tăng hiệu suất đầu tư.
  • Sự tham gia của các nhà bảo trợ, truyền thông, xúc tiến ... sẽ giúp doanh nghiệm không những tiến nhanh, "ít trở ngại" mà còn "bền vững". Không có các đối tác như vậy tham gia thì ý tưởng kinh doanh dù có hay đến đâu cũng chuốc phải không ít rủi ro.
- Mô hình trên dựa trên chiến thuật huy động tối đa các nguồn lực cần thiết, mỗi cá nhân đơn vị thoạt nhìn sở hữu ít cổ phần hơn. Nhưng nhờ phối hợp được nhiều nguồn lực, hiệu quả dự án tăng nên tạo ra kết quả kinh doanh cao hơn nhiều lần. Kết quả là lợi ích của mỗi nhóm đối tượng đều cao gấp bội so với việc các đối tượng đơn độc kinh doanh/hay độc chiếm quá nhiều cổ phần trong doanh nghiệp/dự án.

- Mô hình trên nếu được các đối tác tôn trọng thì rất dễ thành lập nhiều công ty, khởi động nhiều dự án. Như vậy các đối tác sẽ có "nhiêu miếng bánh nhỏ ở nhiều đĩa". Kết quả là thay vì chỉ "chăm chăm chiếm phần bánh lớn ở một đĩa" thì lại có thể "có nhiều miếng bánh ở nhiều đĩa". Do đó, lợi ích tổng thể được gia tăng mà rủi ro lại giảm xuống. Lấy ví dụ một nhóm nhà khoa học cứ một năm nghiên cứu một công nghệ, sau đó chia nhau 25% cổ phần rồi để cho các đơn vị/cá nhân khác thương mại hóa. Thì chỉ sau vài năm họ sẽ sở hữu đáng kể cổ phần ở các công ty khác nhau. Họ chỉ phải tập trung chuyên môn vào việc tạo ra công nghệ nhưng vẫn nhận được lợi ích to lớn nhờ hàng năm đều tạo ra 1 - 2 công nghệ đó. Các nhà đầu tư, bảo trợ, truyền thông ... cũng nhận được các lợi ích tương tự như vậy.

- Về mặt triết học, có lẽ nguyên tắc không tham lam, nguyên tắc chia sẻ, cộng tác sẽ là nguyên tắc hiệu quả nhất trong các doanh nghiệp về công nghệ nói riêng và các doanh nghiệp dựa trên nền kinh tế tri thức nói chung. Nguyên tắc này sẽ giúp cho các đối tác cộng tác hiệu quả và phát huy tối đa thế mạnh của mình.


Một vài ứng dụng thực tế tại Việt Nam của mô hình trên:
- Ứng dụng mô hình trên để thương mại hóa các công nghệ được nghiên cứu trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Để việc tạo ra mô hình trên được dễ dàng hơn thì sẽ cần có một trung tâm xúc tiến thương mại hóa. Trung tâm này có nhiệm vụ đơn giản là với mỗi công nghệ phải tìm cho ra 3 đối tác còn lại về: đầu tư, truyềng thông + marketing + bảo trợ, người làm trực tiếp.

- Ứng dụng mô hình trên để chuyển giao các công nghệ ở nước ngoài về Việt Nam. Cá nhân mình xem qua thấy có rất nhiều công nghệ có thể chuyển giao được. Việt Nam là thị trường gần 100 triệu dân nên không phải thị trường tầm thường trong con mắt của các nhà công nghệ nước ngoài.

- Ứng dụng mô hình trên trong các dự án cộng tác của các doanh nghiệp trong nước với các tổ chức nhà nước.


Chú ý: mô hình trên thực chất là cách tối ưu chúng ta "góp nguồn lực với nhau như thế nào" và cách chúng ta "chia các lợi ích kinh doanh cho nhau như thế nào". Để có thể triển khai kinh doanh hiệu quả nhất.
 
Last edited by a moderator:
Tư tưởng xây dựng ekip

Tư duy của một mãnh hổ

Trong cuốn sách “Good to great” có đưa ra một vài góc nhìn đáng suy nghĩ : Tốt là kẻ thù của vĩ đại và con người đi trước công việc đi sau. Còn có rất nhiều dòng tư tưởng mới lạ khác trong cuốn sách nhưng trong bài viết này mình chỉ trao đổi hai khía cạnh quan trọng trên.

Cá nhân hay tổ chức có tham vọng tới trời xanh thì ngay trong đầu họ phải có suy nghĩ làm thế nào để đạt được mục tiêu đó, nếu như không có tham vọng trên thì họ cứ tiếp tục ở lại mặt đất, cuộc sống vẫn tiếp diễn, những điều tốt đẹp vẫn vây quanh họ. Để làm tốt họ chỉ cần làm việc giống như những tổ chức khác trong xã hội, để trở thành vĩ đại họ phải nỗ lực trở thành người làm tốt nhất thế giới trong lĩnh vực họ tham gia.

Tại sao lại phải tìm kiếm sự biến đổi tốt thành vĩ đại ? Tốt thành vĩ đại đưa ra đáp án cho việc tìm kiếm sự xuất sắc lâu dài. Nó không chỉ là vấn đề kinh doanh, nó là một vấn đề nhân bản. Các nguyên tắc trong sách có thể áp dụng cho các tổ chức khác, không chỉ các doanh nghiệp. Đặc biệt trong góc nhìn quản lý xã hội, các cơ quan chính phủ có thể đưa ra các mô hình quản lý xã hội hiệu quả, đưa quốc gia có bước phát triển đột phá chứ không phải chỉ ngồi đó tự hào về các kết quả tốt đã đạt được.

Cấu trúc của một tổ chức đi từ tốt đến vĩ đại là: Trước tiên là tìm kiếm được những con người phù hợp, xác lập một hệ tư tưởng cho tổ chức đó, cùng nhau đưa ra mục tiêu và hành động để đạt được mục tiêu đó.
Các công ty tốt thành vĩ đại biết rằng con người không phải là tài sản quí nhất của họ, con người đúng mới là tài sản quí nhất. Các công ty tốt thành vĩ đại coi trọng phẩm cách hơn giáo dục, kỹ năng hay kinh nghiệm khi tuyển dụng. Lý do là bạn có thể huấn luyện kỹ năng nhưng phẩm cách, trí tuệ cơ bản, đạo đức làm việc, sự tận tâm hoàn thành công việc là những giá trị sâu thẳm trong từng con người.

Các công ty tốt thành vĩ đại nghiêm khắc nhưng không tàn nhẫn. Người nào không phù hợp với khuôn khổ cuối cùng sẽ ra đi hay được yêu cầu tìm cơ hội ở nơi khác. Kỷ luật nghiêm khắc nhất là ở tầng lớp lãnh đạo cấp cao, nơi gánh vác trách nhiệm lớn nhất.

Người lãnh đạo các công ty vĩ đại sẵn sàng mất nhiều năm để hiểu được các giá trị của tổ chức của mình, cũng như cá nhân phải hiểu được mình muốn gì, mình thực sự có thế mạnh ở lĩnh vực nào, hiểu được tổ chức của mình là bước đi quan trọng nhất. Người lãnh đạo sẵn sàng mất nhiều năm để tìm kiếm những tài năng xuất sắc nhất trên thế giới mà họ có thể chinh phục được. Họ tạo dựng một ekip cùng chí hướng, có thể cùng nhau sống chết vượt qua những khó khăn trong quá trình chinh phục thế giới.

Trước hết là ekip phù hợp, một công ty vĩ đại và một cuộc sống tuyệt vời. Thành viên của những ekip tốt thành vĩ đại có khuynh hướng trở thành bạn và duy trì tình bạn suốt cả đời. Trong nhiều trường hợp, họ vẫn giữ quan hệ gần gủi với nhau nhiều năm thậm chí hàng chục năm sau thời gian làm việc cùng nhau. Thật thú vị nghe họ kể về thời kỳ chuyển đổi, cho dù những ngày đó đen tối thế nào, cho dù công việc khó khăn thế nào, những con người đó vẫn vui vẻ. Họ vui sướng làm việc cùng nhau và chờ đợi những cuộc gặp. Một số lãnh đạo xem những năm tháng làm việc trong ekip tốt thành vĩ đại là những đỉnh cao trong cuộc đời họ. Họ đã vượt quá sự tôn trọng lẫn nhau để đi tới tình đồng đội suốt đời.

Đi liền với ý tưởng "trước tiên là ekip phù hợp" là mối liên hệ gần gủi nhất giữa một công ty vĩ đại và một cuộc sống tuyệt vời. Cho dù cái mà ta đạt được là gì, nếu ta không sống phần lớn cuộc sống của mình với những người mà chúng ta yêu mến, tôn trọng, chúng ta không thể có được một cuộc sống tuyệt vời. Nhưng nếu chúng ta dành phần lớn thời gian của mình với những người mà ta yêu mến và tôn trọng những người chúng ta thực sự vui thích chung ở trên xe với họ, những người không bao giờ làm ta thất vọng thì chắc chắn chúng ta sẽ có một cuộc sống tuyệt vời, cho dù chiếc xe có đi về đâu. Những người ở các công ty tốt thành vĩ đại rõ ràng yêu thích những gì họ làm, chủ yếu là vì họ yêu mến những người cùng làm việc với họ.

Thế nào là ekip vĩ đại, ekip vĩ đại với các thành viên là những con người không tầm thường, trong văn hóa phương đông thương hay dùng khái niệm “Mãnh hổ” để miêu tả hình ảnh những con người không tầm thường. Người lãnh đạo một công ty vĩ đại phải thu phục được những cá nhân mãnh hổ trong xã hội trở thành ekip của mình…đây là việc vô cùng khó. Mô hình quản lý nào để gắn kết sức mạnh của những cá nhân mãnh hổ này, tạo nên sức mạnh to lớn của công ty vĩ đại. Chúng ta hãy thảo luận góc nhìn tính cách của mãnh hổ từ thiên nhiên hoang dã.

Mãnh hổ trong rừng xanh là một muông thú không tầm thường, nó được mệnh danh là chúa tể của rừng xanh. Mãnh hổ có sức mạnh ưu thế hơn các loài muông thú khác chính vì thế nó luôn thể hiện cá tính riêng cho dù nó còn bé hay khi đã là con hổ trưởng thành. Thiên nhiên hoang dã hổ luôn chọn cuộc sống đơn độc, ngay cả khi còn bé luôn có suy nghĩ tạo lập cho mĩnh vùng lãnh thổ riêng, vùng đất nó có ảnh hướng, nó tạo lập ekip riêng trên vùng đất nó là người khai phá. Nó phải cạnh tranh với những con hổ trưởng thành, khi còn yếu nó thậm chí nó còn là con mồi của cáo, chó sói…khi còn yếu nó sẵn sàng đi xa hơn để xác lập lãnh thổ, tôi luyện các kỹ năng, ngày nó trưởng thành nó sẵn sàng cạnh tranh với mọi con hổ khác để tranh giành lãnh thổ. Khát vọng chinh phục, giành chiến thắng để trở thành chúa tể rừng xanh là phẩm chất tốt đẹp nhất của mãnh hổ.

Hàng ngàn năm nay con người với vị trí là loài động vật cao cấp nhất trên trái đất luôn tìm cách thuần phục muôn loài. Loài người đã tìm mọi cách thuần phục loài hổ, những con hổ bị thuần phục thì các phẩm chất hoang dã của nó đều biến mất, giờ đây nó chỉ còn là những con mèo lớn, không còn đâu khát vọng chính phục để trở thành chúa tể rừng xanh.
Trong quản lý xã hội có những nét tương đồng, nếu như nhà quản lý muốn dùng sức mạnh để thuần phục mãnh hổ là các cá nhân xuất sắc, theo những chuẩn mực gò bó của tổ chức đó, cá nhân xuất sắc kia sẽ không còn giữ được các phẩm chất của con mãnh hổ nữa, họ chỉ còn là những con mèo lớn. Các nhà lãnh đạo xã hội thường hai dùng quyền lợi tài chính, đặc quyền xã hội để thu phục mãnh hổ, một hình thức cung cấp thức ăn cho mảnh hổ đển nó không phải đi kiếm ăn sinh tồn nữa, một cách để vô hiệu hóa sức mạnh của mãnh hổ. Mãnh hổ cá tính và tham vọng nó sẽ coi thường cách thuần phục đó của nhà quản lý xã hội, với tài năng của mãnh hổ nó sẽ tự tìm thấy thức ăn, đặc quyền và xây dựng vùng ảnh hưởng riêng, không tại xã hội mà nó sinh ra thì sẽ tại xã hội mà người quản lý xã hội tôn trọng nó, tạo môi trường để nó thể hiện tài năng, đóng góp cho sự phát triển của xã hội mà nó được tôn trọng.

Lãnh đạo các công ty vĩ đại với tư cách cá nhân họ cũng được coi như là một mãnh hổ, khác với khái niệm vùng lãnh thổ, vùng ảnh hưởng trong thiên nhiên hoang rã khái niệm vùng lãnh thổ và vùng ảnh hưởng trong hoạt động kinh doanh và hoạt động xã hội vô cùng đa dạng. Những vùng đất, những khái niệm đại dương xanh vô cùng rộng lớn, có đủ không gian sinh tồn cho tất cả những mãnh hổ trong tổ chức của công ty vĩ đại khai phá. Quản lý đội mãnh hổ trong công ty vĩ đại thành công đó là nghệ thuật cao nhất của người lãnh đạo. Lợi ích tài chính không phải là lý do để các mảnh hổ đầu quân về công ty vĩ đại. Họ thích tư tưởng của công ty vĩ đại, ở nơi đó họ nhận được sự tôn trọng, họ có ekip cùng chí hướng, họ muốn hợp tác để cùng nhau chinh phục các đỉnh cao vĩ đại trong cuộc sống.

Người lãnh đạo công ty vĩ đại phải hiểu và điều hòa được mối quan hệ của các mãnh hổ trong tổ chức, phẩm chất của người lãnh đạo này vẫn nằm trong khái niệm Tài, Tâm, Đức của văn hóa phương đông.

Thảo luận hướng đi, xác lập vùng đất mà tổ chức cần chinh phục, lựa chọn mãnh hổ phù hợp thực hiện kế hoạch trên…những việc tưởng như đơn giản nhưng là bài toán lớn mà không phải nhà lãnh đạo nào cũng giải đúng. Trên một vùng đất địa lý có thể xây dựng nhiều đại dương xanh để các mãnh hổ trong tổ chức chinh phục.

Good to Great cho người đọc những bài học quý giá, cá nhân hay tổ chức có tham vọng xây dựng một công ty vĩ đại hay bắt đầu xây dựng từ con người, hệ tư tưởng và văn hóa cho tổ chức. Lãnh đạo đừng bao giờ có tư duy thuần phục mãnh hổ trong tổ chức của mình hãy để nó sống với những phẩm chất hoang dã, nó chính là nền tảng cho sự sáng tạo, đổi mới của doanh nghiệp. Tư duy của một mãnh hổ đó là khát vọng chinh phục, sáng tạo cống hiến những giá trị tốt đẹp nhất cho gia đình, đồng nghiệp, bạn bè…trong xã hội tôn trọng họ, họ sẽ giúp cho xã hội đó tốt đẹp hơn.
 
Last edited by a moderator:
Vùng ảnh hưởng

I. Văn hóa vùng ảnh hưởng tại Hoa Kỳ

Tại Hoa Kỳ mỗi lĩnh vực, mỗi khu vực đặc quyền, mỗi khu vực có nhiều quyền lợi tài chính và chính trị đều có một hoặc một vài gia tộc chi phối. Những mối quan hệ lợi ích đan chéo giữa các gia tộc, liên kết được xây dựng ngay từ ngày đầu lập quốc cách đây 300 năm tại Hoa Kỳ.

Văn hóa chính trị Mỹ là nền chính trị phục vụ lợi ích các nhóm ảnh hưởng trong xã hội. Các nhóm ảnh hưởng lựa những cá nhân xuất sắc nhất trong tổ chức của mình, đào tạo cá nhân này trở thành chính khách tài năng. Chính khách này sẽ đại diện cho nhóm lợi ích của mình trong nền chính trị Mỹ. Họ bảo vệ lợi ích của nhóm và hỗ trợ chính phủ xây dựng luật, xây dựng chính sách để điều hành hiệu quả nhất vùng ảnh hưởng mà nhóm này đang quản lý. Đây là nét văn hóa rất đặc biệt của nền chính trị Mỹ giúp cho chính phủ quản lý điều hành hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước.

Cách thức lựa chọn chính khách tham gia vào nội các của tổng thống Mỹ tạo điều kiện cho các vùng ảnh hưởng ngày càng phát triển ở Mỹ. Tổng thống lựa chọn các Bộ trưởng từ danh sách các lãnh đạo vùng ảnh hưởng.

Ví dụ như tổng thống lựa chọn người vào vị trí lãnh đạo cục dự trữ liên bang Mỹ (FED). Người nắm giữ vị trí này phải là người nằm trong vùng ảnh hưởng tài chính tiền tệ phố Wall, có nhiều năm kinh nghiệm quản lý điều hành một trong các tập đoàn tài chính lớn của nước Mỹ. Người này phải có ảnh hướng trong giới tài chính, được các thành viên trong giới biết đến và tôn trọng. Quá trình phát triển sự nghiệp của nhân vật này từ khi con trẻ đến thời điểm hiện tại đều được giới tài chính biết đến và hiểu rõ tài năng. Người nắm giữ vị trí lãnh đạo FED phải vượt qua được phiên điều trần của quốc hội, chỉ những người tài năng, am hiểu lĩnh vực tài chính mới được phê chuẩn trở thành lãnh đạo lĩnh vực đó.

Không phải là một mệnh lệch chính trị để đưa một người xa lạ chưa từng có ảnh hưởng trong giới trở thành lãnh đạo cao cấp nhất trong lĩnh vực đó của đất nước. Người lãnh đạo muốn có quyền uy, có đủ ekip tài năng để thực hiện mọi mệnh lệch của người lãnh đạo, mang lại lợi ích của đất nước. Ekip đó phải được từ khi còn trẻ đến khi người lãnh đạo đủ độ chín để ngồi vào vị trí lãnh đạo đó. Một người xa lạ không thể dùng mệnh lệch chính trị ra lệnh cho cấp dưới trong vùng ảnh hưởng nghe lệch được, mệnh lệch như thế không hiệu quả lãng phí thời gian của đất nước. Một người khi ngồi vào vị trí lãnh đạo là phải ngay lập tức giải quyết được những vấn đề khó khăn của đất nước, trong nhiều thời điểm tài năng cá nhân giúp người lãnh đạo đưa ra quyết định quan trọng trong thời gian rất ngắn không kịp nghe tư vấn hỗ trợ từ hệ thống cố vấn cao cấp, chỉ những cá nhân tinh hoa trong vùng ảnh hưởng mới đủ trải nghiệm làm việc đó.

Văn hóa lựa chọn chính khách tham gia vào bộ máy điều hành chính phủ từ giới tinh hoa trong các vùng ảnh hưởng của nước Mỹ là một ưu điểm đáng để nhiều quốc gia nghiên cứu áp dung vào thực tại quốc gia đó.

Sau đây chúng ta sẽ phân tích một số khía cạnh trong các vùng ảnh hưởng tại Hoa Kỳ.

1. Vùng ảnh hưởng ngoại giao

Hoa kỳ là quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới, tất cả các nước từ lớn đến bé đều muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có đại sứ quán và tham tán thương mại ở khắp thế giới, bộ trưởng ngoại giao Mỹ là một trong 3 vị trí quyền lực nhất trong chính phủ.

Nước Mỹ có các vùng ảnh hưởng truyền thống như Nam Mỹ, Châu Âu, Trung Đông…ngoại giao là lĩnh vực chịu ảnh hưởng bởi các mối quan hệ truyền lại giữa các gia tộc và thương hiệu cá nhân của những nhà ngoại giao xuất sắc. Ngoại giao nước Mỹ có quy mô quá rộng một gia tộc không đủ quyền lực và thời gian để chi phối.

Vùng ảnh hưởng Nam Mỹ có những gia tộc nắm quyền đại diện ngoại giao Mỹ tại các quốc gia Nam Mỹ hàng trăm năm, họ sinh sống và làm việc hiệu quả qua nhiều thế hệ tại những quốc gia đó. Họ có quan hệ thân thiết với hầu hết các gia tộc quyền lực điều hành các quốc gia tại Nam Mỹ, thời gian tích lũy quan hệ đủ dài, am hiểu sâu sắc văn hóa con người từng quốc gia đó là sức mạnh đảm bảo của những người làm ngoại giao Mỹ.

Một cá nhân mới không được thừa hưởng các quan hệ ngoại giao được gia tộc đảm bảo rất khó để xây dựng quan hệ và hoàn thành công việc ngoại giao của nước Mỹ tại quốc gia họ được cử đến làm đại diện ngoại giao. Thời gian quá ngắn không đủ để họ xây dựng quan hệ và thực công việc ngoại giao phức tạp và hiệu quả.

Thể chế chính trị ở các quốc gia trên thế giới muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Mỹ hiệu quả cần hiểu được văn hóa ngoại giao và tìm kiếm được kênh quan hệ với các gia tộc chi phối ngành ngoại giao Hoa Kỳ. Tiếp cận đúng kênh quan hệ ngoại giao các quốc gia đó sẽ có lợi thế khi tiếp cận các chính sách, cơ hội tiếp cận nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới.

2. Vùng ảnh hưởng quân sự

Cuộc chiến tranh thế giới thứ 1 và thứ 2 là cơ hội để sức mạnh quân sự Mỹ tạo ảnh hưởng toàn cầu. Ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ đã phát triển nhanh chóng và trở thành nhà cung cấp vũ thiết, thiết bị quân sự chủ chốt cho các quốc gia tham chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 1 ở Châu Âu.

Trong chiến tranh thế giới thứ 2 khi nước Mỹ trực tiếp tham chiến, sức mạnh của đội Mỹ ngày càng khẳng định. Đến tận ngày nay quân đội Mỹ vẫn được coi là quân đội hùng mạnh nhất thế giới, chi tiêu quân sự hàng năm chiếm 50% chi tiêu quân sự toàn thế giới. Người Mỹ dùng sức mạnh quân sự để bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế Mỹ tại mọi địa điểm chiến lược trên toàn cầu.

Trang bị vũ khí hiện đại, vượt trội công nghệ so với các nền quốc phòng các quốc gia khác trên thế giới tạo ưu thế sức mạnh quân đội Mỹ trong các cuộc chiến.

Chi phí quốc phòng là một trong những chi phí lớn nhất trong chính phủ Mỹ, nguồn chi phí này tạo nên những vùng ảnh hưởng to lớn của giới quân sự. Giới quân sự sở hữu các tập đoàn công nghiệp vũ khí khổng lồ, đáp ứng nhu cầu mua vũ khí, hiện đại hóa vũ khí to lớn của Hoa Kỳ. Những tập đoàn công nghiệp này còn phục vụ khách hàng mua vũ khí là hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Chi phí quân sự của nước Mỹ và các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng càng làm củng cố sức mạnh vùng ảnh hưởng quân sự tại Mỹ.

Ngoại giao kinh tế cùng với sức mạnh răn đe quân sự giúp nước Mỹ bảo vệ được các vùng ảnh hưởng của mình trên phạm vi tòa cầu.

3. Vùng ảnh hưởng tài chính

Ngành tài chính của Mỹ hình thành và phát triển mạnh từ trong vào một trăm năm từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20. Nước Mỹ đã trở thành trung tâm tài chính của toàn thế giới. Đồng USD trở thành đồng tiền thanh toán quốc tế, là đồng tiền dự trữ trong kho dự trữ tài chính của mọi quốc gia trên thế giới.

Nền tài chính Mỹ được hình thành từ sự đầu tư hỗ trợ của các tập đoàn tài chính từ Châu Âu, lịch sử ngành tài chính Mỹ ghi nhận vùng ảnh hưởng rất lớn của các tập đoàn tài chính Do Thái đối với nền tài chính Mỹ.

Tài chính là mạch máu của nền kinh tế, nhóm ảnh hưởng nào nắm được ngành tài chính thì nhóm đó nắm được sự sống của nền kinh tế Mỹ và nền kinh tế toàn cầu.

Trong cuốn sách “Chiến tranh tiền tệ” có nói đến hoạt động của câu lạc bộ “Tinh Anh”. Thành viên câu lạc bộ là những nhân vật kiệt suất trong các gia tộc Do Thái nắm giữ cổ phần chi phối tại các ngân hàng lớn nhất thế giới. Ngoài gia còn có sự tham gia của một vài gia tộc tài chính đến từ Anh Quốc, Nhật Bản, Đức, Hà Lan. Những thành viên câu lạc bộ này lên kế hoạch cho dòng chảy tài chính, hàng hóa, hoạt động kinh doanh trên toàn cầu. Câu lạc bộ này đủ sức mạnh đáng sập bất cứ một nền kinh tế nào trên thế giới. Câu lạc bộ kiếm tiền từ hoạt động cho chính phủ các quốc gia vay lãi, những khoản vay khổng lồ gần như không có khả năng chi trả. Tiến thuế của nhân dân các quốc gia đó trả lãi hàng năm cho các tập đoàn tài chính, ngoài ra các tập đoàn này còn thua mua hệ thống dịch vụ phúc lợi của quốc gia nợ nần như hệ thống viễn thông, y tế, nước, điện…sau đó họ tăng giá tùy tiện để thu lợi. Chính phủ các quốc gia đó không còn đủ khả năng bảo đảm an sinh xã hội, đất nước đó không thể phát triển…chỉ còn cách trả nợ bằng tài nguyên đất nước.

Một câu chuyện nói lên một phần sức mạnh của vùng ảnh hưởng tài chính Mỹ, vùng ảnh hưởng này có thể tạo ra một cuộc khủng hoảng tài chính, tạo ra một cuộc chiến tranh quy mô lớn để thu lợi.

Đồng USD là đồng tiền trong thanh toán quốc tế, người Mỹ là chủ sở hữu đồng USD, người Mỹ có quyền in USD ra để chi tiêu, in càng nhiều dolar nghĩa là người Mỹ có quyền mua các giá trị từ khắp thế giới bằng tờ giấy được sức mạnh kinh tế, quân sự Mỹ bảo lãnh.

Vùng ảnh hưởng tài chính Mỹ đã viết luật chơi cho toàn bộ giới tài chính thế giới.

4. Vùng ảnh hưởng truyền thông và luật gia

Ngay từ khi lập quốc người Mỹ đã tuyên truyền văn hóa dân chủ, tự do ngôn luận, tôn trọng ý kiến cá nhân và các nhóm ảnh hưởng, những điều này đã được ghi thành luật của Mỹ.

Truyền thông là phương tiện để người dân tương tác với chính trị Mỹ và xã hội Mỹ nó cũng là phương tiện để nền chính trị Mỹ tương tác với người dân.
Lịch sử phát triển của báo chí, xuất bản, truyền hình, internet…tất cả đều được sáng tạo từ nước Mỹ và truyền bá ra toàn thế giới.

Các vùng ảnh hưởng của Mỹ đều tìm cách chi phối các kênh truyền thông để truyến bá tư tưởng, thông điệp quyền lợi của nhóm mình đến từng người dân trong xã hội, tìm kiếm sự ủng hộ của xã hội. Đa phần các kênh truyền thông Mỹ đều nằm trong tay các tập đoàn tài chính, công nghệ, công nghiệp đã nói lên tầm quan trọng của truyền thông đối với thành công của hoạt động kinh doanh cũng như thành công của các nhóm ảnh hưởng.

Vùng ảnh hưởng Luật sư cũng là nét văn hóa trong xã hội Mỹ. Nước Mỹ là quốc gia có tỷ lệ luật sư trên người dân cao nhất thế giới. Một xã hội có tỷ lệ các vụ kiện cao nhất thế giới, người dân có quyền đưa ra kiện bất cứ các nhân hay tổ chức nào xâm phạm lợi ích của họ.

Giới luật sư là giới có thu nhập cao trong xã hội, họ là những người có tri thức, liên kết tốt vì thế sức mạnh của giới luật sư Mỹ rất lớn trong nền chính trị Hoa Kỳ. Rất nhiều chính khách, tổng thống Mỹ xuất thân từ giới luật sư, giới luật sư giúp cho luật pháp Mỹ minh bạch hơn, hoạt động hiệu quả giúp chính phủ quản trị đất nước tốt nhất.

5. Vùng ảnh hưởng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ

Tôi muốn nói nhiều về vùng ảnh hưởng công nghệ của nước Mỹ, công nghệ là một trong những lĩnh vực nước Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối so với các quốc gia trên toàn thế giới.

Lập quốc từ năm 1776 đến cuối thế kỷ 19 nước Mỹ vẫn là quốc gia phát triển dựa trên nguồn tài nguyên phong phú và lực lượng lao động dồi dào. Nước Mỹ phát triển nhanh nhưng thời điểm đó chưa bao giờ được các quốc gia Châu Âu tôn trọng như một quốc gia hùng mạnh nhất thế giới trong tương lai gần.

Trong giai đoạn phát triển đó nước Mỹ vẫn phải nhập khẩu phần lớn máy móc công nghệ phục vụ phát triển mọi lĩnh vực nền kinh tế từ Châu Âu đặc biệt từ Anh Quốc, Đức, Hà Lan…

Năm cuối thế kỷ 19 những trường đại học được sự tài trợ của các tỷ phú mọc lên ở khắp nước Mỹ. Những tỷ phú giàu có đầy ảnh hưởng đã nhận thấy sức mạnh của giáo dục, của trí tuệ nên đã bỏ rất nhiều tiền xây dựng hệ thống giáo dục tư nhân tại Mỹ. Giới tinh hoa của Mỹ giai đoạn đó đã đặt nền móng cho nền giáo dục Mỹ, họ mong muốn đào tạo ra các thế hệ nhà khoa học, công nghệ tài năng ngay trên chính nước Mỹ, họ không muốn nhập khẩu công nghệ từ Châu âu nữa, họ muốn công nghệ phải được sáng tạo tại nước Mỹ và phục vụ nền kinh tế Mỹ.

Giới tài chính, công nghiệp Mỹ đã tạo mọi điều kiện tài chính để cho những nhà khoa học hàng đầu thế giới đến Mỹ định cư và sáng tạo khoa học. Cuộc chiến tranh thế giới thứ 1 và thứ 2 là cơ hội nghìn năm có một cho nước Mỹ, nhưng tinh hoa khoa học hàng đầu Châu âu đã bỏ chạy sang Mỹ sinh sống, họ muốn bỏ chạy khỏi châu âu đầy chiến tranh và chết chóc. Đến Mỹ một quốc gia hòa bình, họ được giới tài chính, giới công nghiệp Mỹ hậu đãi, tạo mọi điều kiện để nghiên cứu và sáng tạo khoa học, đào tạo thế hệ sinh viên, nhà khoa học tài năng cho nước Mỹ trong thế kỷ 20. Hầu hết các thành tựu khoa học công nghệ trong thế kỷ 20 của nhân loại đều được sản sinh từ nước Mỹ.

Nước Mỹ đến năm 1950 có thể coi là miếng bánh đã được chia xong, vùng ảnh hưởng tài chính đã hình thành, vùng ảnh hưởng công nghiệp như dầu lửa, khoáng sản, bất động sản…đã có các tập đoàn lớn chi phối. Thế hệ trẻ sẽ phải chọn lĩnh vực nào để phát triển sự nghiệp trong khi những miếng bánh đã chia xong, đó là câu hỏi lớn của giới trẻ Mỹ trong những năm 50. Rất nhiều trong số họ muốn chinh phục thế giới, muốn mang văn hóa, giá trị kinh doanh, dịch vụ Hoa Kỳ truyền bá toàn thế giới, đó là lý do nước có nhiều tập đoàn kinh tế quy mô toàn cầu đến thế.

Một trong những lĩnh vực có biên giới phát triển vô hạn đó chính là khoa học công nghệ. Vùng đất mà miếng bánh có thể mở rộng ra mãi, tất cả phụ thuộc trí tuệ và tài năng của các cá nhân xuất chúng trong xã hội.

Nước Mỹ phát triển các thung lũng khoa học để nuôi dưỡng các tài năng khoa học. Tập đoàn tài chính hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm với số vốn khổng lồ để đầu tư các cho ý tưởng công nghệ táo bạo, có khả năng mang lợi nhuận lớn và có khả năng thay đổi thế giới trong tương lai.

Các tập đoàn công nghiệp Mỹ rất hứng khởi vừa tham gia đầu tư hỗ trợ hạ tầng nghiên cứu, sẵn sang bỏ khoản tiền khổng lồ mua lại các phát minh sáng chế để áp dụng cho dây truyền sản xuất của mình. Tất cả đều đó tạo môi trường sáng tạo cho thế hệ trẻ Mỹ, không những thế môi trường này thu hút hầu hết những sinh viên, nhà khoa học tinh hoa nhất thế giới đến Mỹ học tập và tìm kiếm cơ hội. Rất nhiều trong số họ đã thành công và lập nên những giấc mơ Mỹ trong kỷ nguyên thế giới công nghệ.

Thế giới hiện nay khi các nguồn tài nguyên đều bị khai thác đến mức cạn kiệt thì phát triển khoa học công nghệ tìm kiếm phương thức khai thác tài nguyên khác là mục tiêu theo đuổi của các quốc gia trên thế giới. Quốc gia nào giành chiến thắng trong cuộc đua sáng tạo khoa học này sẽ có cơ hội phát triển trong thế giới 21.

Vùng ảnh hưởng công nghệ là vùng ảnh hưởng được giới tinh hoa trẻ của nước Mỹ lựa chọn để phát triển sự nghiệp. Vùng ảnh hưởng này cho phép họ gây dựng sự nghiệp vĩ đại từ vị trí rất thấp trong xã hội, tất cả chỉ phụ thuộc vào tài năng trí tuệ của tinh hoa trẻ đó mà thôi.


II. Văn hóa vùng ảnh hưởng tại Nhật Bản

1. Vùng ảnh hướng Hoàng Gia

Nhật Bản là một trong những quốc gia phong kiến có nền văn hóa đặc sắc nhất Châu Á. Trong xã hội phong kiến đức vua và gia tộc là tổ chức có ảnh hưởng nhất trong xã hội, quyết định mọi công việc trọng đại của đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Hoàng Gia Nhật Bản hiện nay đã cai trị đất nước trong 500 năm, Nhật Hoàng Minh Trị là vị vua nổi tiếng nhất trong hoàng gia. Ông đã được nhân dân Nhật phong Thánh, ông là người đã lãnh đạo nước Nhật chuyển mình từ quốc gia nông nghiệp phong kiến trở thành quốc gia tư bản giàu hùng mạnh nhất Châu Á.
Đến tận ngày nay hoàng gia Nhật Bản vẫn giữ được vùng ảnh hướng to lớn trong xã hội Nhật, Hoàng Gia như nhà lãnh đạo tinh thần, biểu tượng cho văn hóa Nhật Bản. Hoàng Gia không còn trực tiếp tham gia điều hành mọi hoạt động của đất nước như thời xưa nữa, công việc này giao quyền cho chính phủ được nhân dân bầu ra và được Nhật Hoàng chấp nhận.

Hoàng Gia Nhật Bản là vùng ảnh hưởng bất khả xâm phạm.

2. Vùng ảnh hướng các gia tộc gia tộc quân sự

Để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Hoàng Gia phải dựa vào sự trung thành bảo vệ của các gia tộc quân sự. Sức mạnh quân đội là đảm bảo quyền lực cho chế độ phong kiến xưa tại Châu Á, đó là lý do lãnh đạo quân sự luôn có vùng ảnh hưởng to lớn trong xã hội chỉ sau vùng ảnh hưởng của Hoàng Gia.

Trung thành và tận chung vì nhà vua chỉ có thể xây dựng dựa trên niềm tin vào huyết thống của các gia tộc có quyền lợi từ triều đại phong kiến cai trị đó. Xây dựng sự nghiệp trong nghề binh nghiệp dựa rất nhiều vào xuất thân của quân nhân, chỉ những người có xuất thân cao quý mới được nắm giữ các vị trí quan trọng nhất trong quân đội.

Quân đội được Hoàng Gia giao cho rất nhiều đặc quyền để quân đội có được sức mạnh lớn nhất bảo vệ tổ quốc. Qua hàng trăm năm các gia tộc quân sự đã tích lũy được lượng tài sản to lớn, chiếm tỷ lệ lớn tài sản trong xã hội. Nhật Hoàng tuyên bố đầu tháng đồng minh, chấp nhận bại trận trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 nhưng ảnh hưởng của gia tộc quân sự Nhật Bản vẫn được giữ nguyên. Giới tướng lĩnh và các gia tộc quân sự tại Nhật vẫn chi phối mọi hoạt động của xã hội, sắp xếp các vị trí lãnh đạo chính trị của đất nước.

Gia tộc quân sự Nhật Bản là vùng ảnh hưởng bất khả xâm phạm.


3. Vùng ảnh hướng các gia tộc kiểm soát các ngành công nghiệp


Nhật Hoàng Minh Trị đã có tầm nhìn vượt thời đại, mở của đất nước, Nhật Bản có cơ hội tiếp nhận nền văn hóa, khoa học công nghệ hiện đại phương Tây. Từ giữa thế kỷ 19 Nhật Hoàng đã tạo điều kiện để hình thành nên một vùng ảnh hưởng mới trong xã hội Nhật Bản đó là vùng ảnh hưởng của các gia tộc kiểm soát các ngành công nghiệp. Từ những khởi đầu trong ngành công nghiệp trong lĩnh vực dệt may, khai thác than đá…tập đoàn công nghiệp Nhật đã phát triển nhanh chóng đủ sức tiếp cận công nghệ chế tạo vũ khí, tàu chiến, máy bay chiến đấu…cung cấp hậu cần cho quân đội Nhật tham gia cuộc chiến tranh thế giới trong đầu thế kỷ 20.

Văn hóa của xã hội công nghiệp đã trở thành nét văn hóa mới của nhân dân Nhật, 20 năm sau chiến tranh Nhật Bản đã trở thành quốc gia công nghiệp lớn thứ 2 thế giới, xây dựng hàng chục thương hiệu quốc tế về sản phẩm công nghiệp.

Nhật Bản của thế giới 19 là học hỏi, tiếp nhận các sáng tạo công nghiệp từ Phương Tây, thế kỷ 20 là thế kỷ người Nhật đã sáng tạo ra những công nghệ để truyền bá từ toàn thế giới, hàng hóa, sản phẩm công nghiệp Nhật đến mọi ngõ ngách các quốc gia.

Sau gần 200 năm vùng ảnh hưởng của các gia tộc công nghiệp Nhật Bản trở thành thế lực mới trong xã hội, vùng ảnh hưởng đại diện cho trí tuệ, sáng tạo của dân tộc Nhật Bản.

Vùng ảnh hưởng của Hoàng Gia và vùng ảnh hưởng gia tộc chính trị hầu như chỉ ảnh hưởng tới những người dân Nhật, trong phạm vi nước Nhật. Vùng ảnh hưởng của các gia tộc công nghiệp Nhật Bản trong một số lĩnh vực có quy mô toàn cầu, rất nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ Nhật Bản là người đứng đầu, họ tri phối sự phát triển quy mô toàn cầu lĩnh vực đó.
 
Last edited by a moderator:
III. Văn hóa vùng ảnh hưởng tại Việt Nam

Tại Việt Nam khái niệm vùng ảnh hưởng chỉ xuất hiện rõ nét trong 15 năm gần đây, người dân đã dần cảm nhận được sức mạnh của những vùng ảnh hưởng này. Trong những năm tháng chiến tranh khái niệm vùng ảnh hướng rất khó nhận ra, lúc đó cả dân tộc giành sức người sức của để giải phóng đất nước, không nhiều người nghĩ đến lợi ích của cá nhân, của nhóm lợi ích của mình…mọi người phấn đấu, hy sinh vì mục tiêu lớn của dân tộc.

Sau năm 1975 đất nước hòa bình, tư tưởng của dân tộc vừa bước ra khỏi cuộc chiến dần thay đổi, chủ nghĩa cá nhân, các nhóm lợi ích hình thành để phân chia các đặc quyền của đất nước. Tư tưởng vùng ảnh hưởng đã bước đầu hình thành ở Việt Nam và nó đang có tốc độ phát triển nhanh chóng mặt, chúng ta hãy cùng nhau phân tích một phần hiện tượng này.

1. Vùng ảnh hưởng thế hệ lưu học sinh tại Nga và các nước Đông Âu

Sau cách mạng tháng 8/1945 đất nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một phần trong hệ thống xã hội chủ nghĩa toàn cầu, Liên Xô là quốc gia lãnh đạo hệ thống. Những năm đầu thập niên 60 đến cuối thập niên 80 các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đặc biệt là Liên Xô đã hỗ trợ đào tạo cho Việt Nam gần 20 vạn người trong hầu hết các lĩnh vực như quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội, khoa học công nghệ…trình độ từ công nhân đến các nhà khoa học công nghệ hàng đầu tại Việt Nam sau này. Chính phủ đã đưa những cá nhân ưu tú nhất của đất nước đi đào tạo tại nước ngoài, đất nước mong muốn họ sẽ học tập được những kiến thức khoa học công nghệ, khoa học quản lý tiên tiến nhất của thế giới, thế hệ này sẽ là nguồn lực lãnh đạo đất nước sau này. Khi đất nước còn trong khói lửa môt phần hệ thống cá bộ được đào tạo tại nước ngoài này đã về nước góp công lớn vào chiến thắng của nhân dân ta đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Sau năm 75 phần lớn thế hệ cán bộ cử đi đào tạo đã trưởng thành, về nước họ đã và đang giữ vị trí lãnh đạo trong tất cả các lĩnh vực của đất nước. Rất nhiều người trong số họ trở thành lãnh đạo cao câp của đất nước, lãnh đạo các cơ quan chính phủ, lãnh đạo tỉnh và thành phố quan trọng.

Hệ thống lãnh đạo đất nước có cùng một điểm chung là được đào tạo tại Nga và các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu, thế hệ cán bộ này tạo nên một vùng ảnh hưởng rất lớn của những cựu lưu học sinh Liên Xô đối với xã hội Việt Nam.

Một phần không nhỏ cán bộ, công nhân được gửi đi đào tạo và làm việc trong giai đoạn đó đã ở lại các nước sở tại đặc biệt là Nga, Ba Lan, Cezch, Đức, Ucraina. Họ đã xây dựng nên cộng đồng người Việt rất lớn mạnh tại các quốc gia này, tham gia vào các hoạt động của nền kinh tế. Cộng đồng người Việt này đã có thành công không nhỏ trong lĩnh vực kinh doanh. Thương mại, khoa học công nghệ.

Doanh nghiệp Việt Kiều tại Nga và Đông âu là cầu nối đưa hàng hóa Việt Nam được bán tới các thị trường này. Những năm gần đây trào lưu các doanh nghiệp Việt Kiều Nga đầu tư về nước rất thành công. Những doanh nghiệp này đã mở ra nhiều lĩnh vực kinh doanh mới ở Việt Nam, đóng góp vốn, công nghệ để khai thác hiệu quả các tiềm năng của đất nước.

Cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân từ Nga và Đông âu là một trong những cộng đồng kinh doanh ảnh hưởng nhất tại Việt Nam hiện nay.

Khái niệm về “Ngoại giao lưu học sinh” đã xuất hiện từ lâu trên thế giới, những quốc gia phát triển thường thu hút được lượng lớn lưu học sinh từ khắp thế giới đến học tập văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật. Những năm tháng học tập tại quốc gia đó nhóm sinh viên này nói được ngôn ngữ của họ, hiểu được văn hoá của họ, am hiểu văn hoá kinh doanh Việt Nam. Các doanh nghiệp tại các quốc gia trên khi làm ăn tại Việt Nam đã dựa trên việc kết hợp hệ thông nhân sự cao cấp là những cựu sinh viên du học từng có những năm tháng học tập tại quốc gia của họ giúp cho doanh nghiệp đó thâm nhập thành công vào thị trường Việt Nam.
Bộ ngoại giao những quốc gia có số lượng lưu học sinh lớn như Mỹ, Anh, Pháp…có bộ phần chuyên theo dõi sinh viên ngoại quốc học tập trong các trường đại học của nước họ. Bộ ngoại giao chú trọng tới sinh viên là con cái các quan chức chính phủ, con cháu các gia tộc kinh doanh lớn tại các quốc gia đang phát triển. Họ có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với nhóm sinh viên này, tạo điều kiện học tập, tạo điều kiện sống tốt nhất. Nhóm sinh viên này sau khi trở về nước họ sẽ cầu nối quan trọng đưa các doanh nghiệp tại quốc gia họ đã học tham gia các dự án quan trọng, béo bở tại đất nước mình.

Hiện nay các doanh nghiệp lớn tại Đông âu khi muốn đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam họ tìm được sự hậu thuẫn rất lớn từ quan chức chính phủ đã từng du học tại nước họ. Dễ dàng tìm được đối tác tin cậy từ cộng đồng doanh nhân Việt Kiều đang có hoạt động kinh doanh tại quốc gia họ và cả ở Việt Nam.

2. Vùng ảnh hưởng của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ

Cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ chiếm 70% cộng đồng người Việt tại hải ngoại khoảng 2 triệu người. Với quy mô dân số lớn, cộng đồng có người tham gia hầu hết vào các lĩnh vực của nền kinh tế Hoa Kỳ, rất nhiều người trong số họ thành công. Cá nhân trong cộng đồng trở thành dân biểu, tham gia vào động của chính phủ Mỹ, nhà khoa học tên tuổi, doanh nghiệp vừa và nhỏ thành công…có cả những cá nhân thành công trong lĩnh vực công nghệ có tài sản hàng tỷ USD và trở thành hình mẫu trong cuốn sách về giấc mơ Mỹ.

Cộng đồng Việt Kiều tại Mỹ hàng năm gửi về nước từ 5 đến 6 tỷ USD hỗ trợ người thân, tham gia đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

Cộng đồng người Việt tại Mỹ cũng là một trong những cộng đồng được học tập trong môi trường giáo dục rất tốt của Mỹ, trình độ dân trí trong cộng đồng rất cao. Nhà khoa học, chuyên gia công nghệ Việt Kiều làm việc tại các tập đoàn công nghệ siêu quốc gia của Mỹ, họ mong muốn chuyển gia công nghệ đó về Việt Nam, xây dựng và phát triển ngành công nghệ mới với trí tuệ và nguồn nhân lực người Việt trong nước.

Tài chính, khoa học và công nghệ là một trong những quyền lực mà cộng đồng Việt Kiều tại Mỹ sở hữu, lợi thế không nhỏ khi cạnh tranh với các nhóm lợi ích khác tại Việt Nam, các bên phải cạnh tranh nhau để có quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên con người và khoáng sản của đất nước.

Dùng nguồn tài chính, công nghệ từ cộng đồng người Việt tại Mỹ đầu tư nhà máy sản xuất hàng hóa tại Việt Nam và bán sản phẩm ra toàn thế giới sẽ mang lại nguồn lợi không nhỏ cho khu vực vùng ảnh hưởng này.

Cộng đồng người Việt tại Mỹ muốn xây dựng liên kết ảnh hưởng tại Việt Nam họ phải tìm kiếm được đối tác phù hợp. Thế hệ 7X và 8X là thế hệ hội tụ nhiều yếu tố phù hợp, được học tập bài bản, có tầm nhìn và tư duy toàn cầu. Thế hệ sẵn sàng tham gia hoạt động đầu tư và thương mại toàn cầu, quan trọng nhất đó là một thế hệ có thiện chí làm ăn với người Mỹ.


3. Hình thành vùng ảnh hưởng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tại Việt Nam đến năm 2030

Khái niệm khoa học và công nghệ thực sự hình thành ở Việt Nam từ sau những năm 1950. Sau 50 năm truyền bá kiến thức khoa học công nghệ, một thế hệ những người hiểu khoa học và công nghệ đã hình thành. Họ và những nhà khoa học được đã được đào tạo ở nước ngoài đặc biệt là ở Nga và một số nước Châu âu tham gia đào tạo giảng dạy kiến thức tại các trường đại học.

Lĩnh vực khoa học công nghệ chưa có nhiều thành tựu sáng tạo công nghệ nổi bật, chưa có đóng góp nhiều cho sự phát triển của nền kinh tế do rất nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất đó chính là thời cơ phát triển khoa học công nghệ Việt Nam đã đến, ai sẽ là người nắm được cơ hội lãnh đạo vùng ảnh hưởng này tham gia mạnh mẽ và sự phát triển xã hội. Dư thừa tài chính và nhu cầu tiếp cận nền kinh tế bậc cao sử dụng khoa học công nghệ là những yếu tố cần và đủ để khoa học công nghệ trong nước phát triển trong giai đoạn 2010 đến 2030.

Hướng tới những cơ hội phát triển trong tương lai thế hệ trẻ tự tin họ sẽ xây dựng vùng ảnh hưởng khoa học công nghệ trở thành một trong những vùng ảnh hưởng to lớn trong xã hội Việt Nam thế kỷ 21.

Sau 20 đổi mới kinh tế có thể nói hầu hết miếng bánh trong nền kinh tế của đất nước đã chia xong, lĩnh vực năng lượng, khai thác dầu khí, bất động sản, tài chính…đều đã được các tập đoàn lớn chi phối, rất khó để tìm ra cơ hội kinh doanh thông thường cho thế giới trẻ tài năng, đặc biệt là những cá nhân có xuất phát điểm thấp. Lựa chọn lĩnh vực khoa học công nghệ là hướng phát triển sự nghiệp là lựa chọn khôn ngoan, nó cho phép các nhân tinh hoa trẻ xây dựng một sự nghiệp vĩ đại, tất cả phụ thuộc vào tài năng và trí tuệ của cá nhân đó.

Hiện nay một số tập đoàn tài chính và công nghiệp trong nước đã tích lũy được số vốn không nhỏ, những tập đoàn này xác định chiến lược tìm kiếm cơ hội đầu tư vào sáng tạo công nghệ, phát triển những công nghệ khai thác hiệu quả tiềm năng của đất nước. Với cách thức kinh doanh hiện nay của các tập đoàn trong nước là khai thác tài nguyên, xuất khẩu tài nguyên thô…không mang lại hiệu quả kinh tế cao, gần tiến đến giới hạn của lợi nhuận, để tìm kiếm phương thức tối đa hóa lợi nhuận họ phải có áp lực tiếp cận công nghệ hiện đại. Đầu tư cho sáng tạo khoa học trong nước là điều kiện họ nắm quyền kiểm soát công nghệ đầu vào cho sản xuất công nghệ của tập đoàn.

Thời cơ đến khi các nhóm lợi ích tìm thấy giá trị của nhau những nhà khoa học tài năng, làm việc hiệu quả sẽ tìm thấy những nhà đầu tư tài chính đầy tiềm lực và có một tầm nhìn xa.

Lựa chọn lĩnh vực để nghiên cứu và cho ra các sáng tạo công nghệ trước mắt để phục vụ cho nền kinh tế trong nước là cơ hội để phát hiện ra nhà lãnh đạo trong vùng ảnh hưởng công nghệ. Tinh hoa công nghệ có tầm nhìn xa, dự đoán lựa chọn chính xác hướng nghiên cứu sáng tạo công nghệ cho công đồng công nghệ trong nước sẽ là người đủ uy tín lãnh đạo vùng ảnh hưởng này.

Để bầu ra người lãnh đạo vùng ảnh hưởng công nghệ Việt Nam chúng ta phải chờ thực tế để lựa chọn. Ngôi sao nào sẽ thành công trong lĩnh vực khoa học công nghệ, trở thành người giàu có, khai phá tiềm năng mới cho đất nước sẽ được những người trong giới biết đến và được người trong giới ủng hộ trở thành lãnh đạo vùng ảnh hưởng.

Người lãnh đạo tham gia bảo vệ quyền lợi của nhóm lợi ích và vùng ảnh hưởng công nghệ trong nền chính trị trong nước. Tham gia vào hệ thống chính trị, hệ thống quản lý của chính phủ để đưa ra các chính sách hợp lý, giúp cho vùng ảnh hưởng ngày càng phát triển và giúp cho chính phủ quản lý lĩnh vực khoa học công nghệ hiệu quả hơn, đặc biệt khoa học công nghệ sẽ hỗ trợ chính phủ quản lý các nguồn lực đất nước hiệu quả hơn. Chính phủ quản lý đất nước hiệu quả, xã hội sẽ ngày càng phát triển.
Thế hệ tinh hoa công nghệ Việt phát triển sự nghiệp vĩ đại của mình, luôn biết cách thể hiện tố chất nắm lấy cơ hội trở thành nhà lãnh đạo trong vùng ảnh hưởng khoa học công nghệ của đất nước. Đó là vinh dự cá nhân và trách nhiệm xã hội của cá nhân tinh hoa trong thế hệ tinh hoa công nghệ Việt.


4. Vùng ảnh hưởng biển và hải đảo tại Việt Nam đến năm 2030


Việt Nam có 3200km bờ biển và 1 triệu km2 mặt nước biển đó là nguồn tài nguyên quý giá ông cha đã để lại cho con cháu. Theo thống kê hiện nay các nguồn lợi khai thác từ Biển chiếm chưa đến 20% GDP điều đó cho thấy rất nhiều tiềm năng về biển đất nước ta chưa khai thác được.

Những nguồn tài nguyên trên đất liền nhân dân có thể tham gia khai thác rất dễ dàng, có thể bằng những hoạt động chân tay hoặc máy móc không thường. Hoạt động đó cho phép chúng ta khai thác tài nguyên như than đá, các loại quặng vàng, sắt, titan…khai thác rừng, trồng trọt và chăn nuôi…

Để khai thác hiệu quả tài nguyên biển cần đầu tư phương tiện phức tạp hơn như thuyền, phương tiện khai thác và đặc biệt cần có nguồn lao động có trình đạo công nghệ mới có thể tham gia khai thác tài nguyên biển. Hiện tại chúng ta mới tham gia khai thác hải sản, hoạt động nuôi trồng còn hạn chế, chưa tiếp cận khai thác được nguồn tài nguyên khác nằm sâu dưới đáy biển.

Khai thác vào bảo vệ chủ quyền biển đảo và là nhiệm vụ chính trị mang tính chất thời đại của dân tộc. Nó cần sự tham gia của mọi người lực trong nước từ nhân lực, nguồn vốn, công nghệ mới có thể đảm bảo được tiềm lực khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên biển đảo. Đây là bài toán lớn nhất trong hàng năm phát triển của đất nước chưa một giới nào, một nhóm lợi ích hay nhóm ảnh hưởng nào trong xã hội đủ sức mạnh, lãnh đạo các nguồn lực đất nước để chinh phục đại dương.

Xây dựng tầm nhìn đất nước về khai thác biển đảo, cụ thể hóa bằng các chiến lược, kế hoạch chi tiết khai thác những lĩnh vực nào đó là nhiệm vụ cần nhanh chóng nghiên cứu hoàn thiện, công bố rộng rãi trong xã hội.

Ví dụ như vùng biển nước ta có vị trí quan trọng trong hành trình hàng hải quốc tế, lĩnh vực vận tại hàng hóa, xây dựng cảng trung chuyển, kho bãi…cung cấp dịch vụ logistics cho các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Tập trung khai thác và nuôi trồng loại hải sản nào có lợi trên các vùng biển phân bố theo vỹ độ của đất nước. Trồng và khai thác các loại rong biển có giá trị kinh tế cao, làm thức ăn, làm nguyên liệu cho các ngành Dược phẩm, có rất nhiều dược liệu quý chỉ có thể trồng và khai thác trong vùng biển Việt Nam.

Khai thác và bảo vệ Biển đảo tất cả các nhóm lợi ích hiện tại trong xã hội đều có cơ hội tạo dựng ảnh hưởng. Đây là vấn đề sống còn của quốc gia vì thế nhóm lợi ích nào có ảnh hưởng tuyệt đối trong chiến lược khai thác biển sẽ chiếm ưu thể trong hoạt động chính trị. Lãnh đạo của nhóm ảnh hưởng Biển sẽ có nhiều cơ hội tham gia hoạt động lãnh đạo đất nước, tài năng của người lãnh đạo và nhóm ảnh hưởng có cơ hội thể hiện ở quy mô quốc gia, quốc tế, lợi ích của nhóm ảnh hưởng biển càng được đảm bảo.

Khai thác và bảo vệ hiệu quả tài nguyên biển đất nước đó là sức mạnh tổng hợp, người lãnh đạo phải có đủ tài năng để thuyết phục các nhóm ảnh hưởng khác tham gia hỗ trợ mới có đủ sức mạnh thực hiện khối lượng công việc khổng lồ và khai thác mang lại hiệu quả kinh tế lớn.

Nhóm ảnh hưởng tài chính và nhóm ảnh hưởng công nghệ sẽ ưu thế nếu hai nhóm này có kể xây dựng quan hệ hợp tác chiến lược lâu dài để cùng nhau chinh phục nguồn tài nguyên biển phong phú, dồi dào của tổ quốc.

Có hai thị trường lớn mà nhóm ảnh hưởng tài chính và công nghệ có thể kết hợp với nhau. Một là cùng nhau đầu tư phát triển công nghệ phù hợp khai thác tiềm năng biển phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tập chung sản xuất các sản phẩm thông thường. Hai là nghiên cứu phát triển các ứng dụng công nghệ phục vụ cho quốc phòng. Các công nghệ đột phá bảo vệ vùng biển sẽ có cơ hội tiếp cận nguồn vốn quốc phòng khổng lồ hàng năm của chính phủ. Nghiên cứu và phát triển thành công những vũ khí này, tạo ưu thế cho quân đội nhân dân Việt Nam trên biển sẽ mang lại đặc quyền tuyệt đối cho nhóm lợi ích này.

Kết luận: Bài viết “Vùng ảnh hưởng” được hoàn thành dựa trên suy nghĩ và trăn trở của Lobby Vietnam Club. Tư tưởng bài viết sẽ dần hoàn thiện trong tương lai, dựa trên những trải nghiệm của các thành viên trong Lobby Vietnam Club

Trần Đại Thắng
Mobile: 077.6699.668
Website: http://lobby.vn/
 
Last edited by a moderator:
Văn hóa xuất bản Alan Greenspan

Những năm tháng trên giảng đường đại học một giáo sư đáng kính đã nói với tôi rằng phát minh quan trọng bậc nhất làm thay đổi xã hội loài người chính là phát minh ra máy in. Thế kỷ 15 ở Châu Âu máy in xếp chữ ra đời làm thay đổi phương thức xuất bản của xã hội, từ đây hàng triệu cuốn sách có thể được nhân bản nhanh chóng, hàng triệu người có cơ hội tiệp cận tri thức nhanh nhất rẻ nhất.

Loài vật chỉ có thể truyền lại tri thức và thông tin cho đời sau qua việc truyền lại thông tin qua bộ gen, thế hệ sau buộc phải lặp lại tất cả các quá trình thế hệ trước đã trải qua.

Con người là động vật cấp cao có thể truyền lại cho đời sau tri thức, kinh nghiệm thông qua các câu truyện dân gian, qua các cuốn sách, hệ tư tưởng đồ sộ của các nhà triết gia, nhà khoa học nổi tiếng trong lịch sử.

Hàng ngàn năm trước một nhà tư tưởng lớn có viết ra một cuốn sách vĩ đại nhưng làm thế nào để hàng ngàn năm sau vẫn có hàng triệu người đọc cuốn sách đó, tên tuổi nhà tư tưởng đó sẽ lưu danh mãi trong lịch sử. Phương thức truyền bá tư tưởng trước kia là qua phương thức nói chuyện ví dụ như các Cha Sứ giảng dạy kinh thánh cho con Chiên. Sách được nhân bản qua phương thức chép tay, tốc độ chậm, rất ít người dân trong xã hội có cơ hội đọc những tư tưởng đó, chỉ tầng lớp quý tộc mới đọc tiếp cận.

Một xã hội muốn phát triển thì mọi người dân phải có quyền tiếp cận tri thức nhanh nhất, rẻ nhất…nó phát huy trí tuệ của cả xã hội đó, các quốc gia phương tây đã hưởng lợi khi truyền bá tri thức tới mọi người dân trong xã hội nhờ phát minh máy in thế kỷ 15.

Truyền bá thông tin, tri thức hệ tư tưởng chính là nền văn hóa xuất bản của xã hội loài người.

1.Văn hóa xuất bản Phương Đông

Châu Á là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, Châu Á cũng là nơi sản sinh ra nhiều nhà tư tưởng lớn, tôn giáo lớn, thông qua các phương thức xuất bản khác nhau mà ngày nay con người vẫn hiểu được cấc giá trị văn hóa, nhân văn đã được các nhà tư tưởng xây dựng cách đây hàng ngàn năm. Nó là một phần gốc rễ văn hóa của các dân tộc Châu Á

Trung Quốc với hệ tư tưởng đạo Khổng ảnh hưởng đến hàng tỷ người trên thế giới, nếu không có phương thức xuất bản như nói chuyện truyền bá tư tưởng, các nho sĩ chép tay các cuốn sách lên chất liệu như lụa, gỗ, giấy thì làm sao tư tưởng đạo Khổng có thể giữ được nguyên vẹn đến tận ngày nay.

Ấn Độ nơi phát sinh ra đạo Phật, tôn giáo ảnh hưởng lớn nhất thế giới, các nhà sư qua hàng ngàn năm đã truyền bá tư tưởng đạo phật đến mọi vùng đất, đến từng người dân trong xã hội.

Mỗi quốc gia có nền văn hóa riêng, mỗi người dân quốc gia đó luôn mong muốn truyền bá văn hóa dân tộc mình ra thế giới càng nhiều càng tốt. Họ vận dụng tất cả các phương thức xuất bản có thể có như phim ảnh, văn hóa ẩm thực, truyền bá khoa học công nghệ, quyền lực kinh tế…

Người Hàn đã dùng phim ảnh để xuất bản văn hóa Hàn Quốc đến hàng tỷ người trên thế giới đặc biệt văn hóa điện ảnh Hàn Quốc có ảnh hưởng rất rõ ở các nước Châu Á trong 20 gần đây. Thập kỷ sắp tới chính phủ Hàn Quốc đạt mục tiêu quốc tế hóa các món ăn của dân tộc mình và truyền bá đi toàn thế giới, một lúc nào đó món ăn Hàn Quốc sẽ xuất hiện nhiều trong bữa ăn gia đình của nhiều dân tộc trên thế giới.

Người Nhật dùng quyền lực kinh tế, sức mạnh hàng hóa để truyền bá văn hóa Nhật đi khắp thế giới từ những năm 1970 đến nay, họ đã rất thành công.

Người Trung Quốc có tham vọng truyền bá văn hóa tư tưởng Trung Hoa ra toàn cầu, TQ có kế hoạch xây dựng khu văn hóa Khổng Tư trên khắp các Châu Lục.

Nhìn tổng thể các quốc gia Phương Đông chúng ta có thể nhận thấy chỉ có những quốc gia nào có tham vọng tạo lập ảnh hưởng toàn cầu, nâng cao vị thế của dân tộc của quốc gia mới thực sự hiểu được văn hóa xuất bản. Chính phủ khuyến khích các tổ chức và từng người dân bằng các phương tiện xuất bản khác nhau truyền bá tư tưởng, văn hóa, hình ảnh dân tộc mình đi khắp thế giới. Ủng hộ văn hóa xuất bản là cách thức chính phủ kích hoạt tri thức toàn dân tộc, cùng nhau truyền bá giá trị quốc gia ra thế giới.

2. Văn hóa xuất bản Phương Tây

Người phương tây từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20 đã có những bước đi nhanh hơn xã hội phương đông vì họ đã ủng hộ văn hóa xuất bản, họ cũng được hưởng lợi từ phát minh máy in chữ.

Xuất bản tri thức để hàng triệu người dân có được kỹ năng học vấn cao, năng suất lao động sẽ cao, sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế chính là sức mạng tri thức của mỗi công dân trong nền kinh tế đó.

Hàng trăm năm qua nhờ ngành công nghiệp xuất bản mà văn hóa phuong tây tràn ngập thế giới. Phim ảnh, sách báo, tri thức phương tây đi đến mọi ngõ ngách trên quả địa cầu, nó cũng góp phần xóa sổ nhiều nền văn hóa yếu kém của nhiều dân tộc thiểu số.

Thế giới đang phát triển rất nhiều công nghệ hỗ trợ xuất bản tới từng cá nhân trong xã hội, internet là phương thức xuất bản tạo ra ảnh hưởng xã hội sâu sắc nhất. Website cá nhân có thể được ví như nhà xuất bản cá nhân hoặc kênh truyền thông cá nhân, nó là một phương thức để cá nhân tìm kiếm vị trí trong xã hội hiện đại.

Các phương thức xuất bản hiện đại đang ảnh hưởng xấu sắc tới nền chính trị, hoạt động quản lý điều hành các quốc gia phương tây. Giờ đây các chỉnh phủ có thể trao đổi thông tin trực tiếp từ người dân, đưa ra các chính sách, quyết định nhanh nhất phù hợp nhất để xã hội phát triển.

Phương thức xuất bản mới làm thay đổi cách quản trị văn hóa doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh. Thế giới biến đổi nhanh chóng đến mức bây giờ người chiến thắng không phải là kẻ mạnh nhất mà là người nhanh nhất . Doanh nghiệp nào xây dựng được cơ chế tương tác với người tiêu dùng hiệu quả thì doanh nghiệp đó sẽ giành chiến thắng.

Thay đổi liên tục, giữ vững ưu thế tuyệt đối trong lĩnh vực xuất bản, chi phối các dòng thông tin trên thế giới là cách các doanh nghiệp phương tây làm chủ thế giới

3. Văn hóa xuất bản Alan Greenspan

Câu truyện thành công của Alan Greenspan có thể được giải thích một phần dưới góc nhìn văn hóa xuất bản Hoa Kỳ, đây là câu truyện có ảnh hưởng tới tôi rất nhiều, đó cũng là lý do để tôi viết bài “Văn hóa xuất bản Alan Greenspan”

Đọc cuốn sách Alan Greenspan và kỷ nguyên hỗn loạn chúng ta nhận thấy được sự uyên bác của ông. Là một người Do Thái ông chịu ảnh hưởng nền văn hóa của dân tộc này. Dân tộc Do Thái là dân tộc coi trọng tri thức bậc nhất thế giới, dân tộc Do Thái có câu châm ngôn “Kẻ thù có thể cướp đi của chúng ta đất đai, của cải nhưng không thể cướp đi của chúng ta tri thức”

Israel với dân số 11 triệu người được biết đến là quốc gia có tỷ lệ xuất bản trên đầu người cao nhất thế giới. Có trường đại học có nhiều đầu sách nhất thế giới, đi ngoài đường chúng ta bắt gặp người Israel đọc sách ở bất cứ nơi đâu, họ luôn tâm niệm mỗi ngày phải đọc một cái gì mới.

Thời sinh viên Alan Greenspan luôn cố gắng đọc rất nhiều sách, ở tuổi 25 khi đang làm nghiên cứu sinh ông đã xuất bản rất nhiều bài phân tích đánh giá về nền kinh tế Mỹ thông qua nhiều kênh xuất bản khác nhau như báo trường, báo địa phương, tờ báo tài chính, báo cáo trong các hội nghị khoa học hoặc thâm trí trong các buổi nói chuyện với bạn bè khi phân tích về nền tài chính và kinh tế Mỹ.

Ông rất tự tin đưa ra những mô hình kinh tế do ông tự xây dựng, các phân tích đánh giá độc lập công bố cho mọi người được biết, ông luôn làm cho người đọc ngạc nhiên bởi phân tích sắc bén, những bậc thầy trong giới cũng bắt đầu để ý, quan sát tài năng này.

Bước ngoặt đến với Alan chính là thời điểm là đầu những năm 1950 giai đoạn nước Mỹ tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên. Cuộc chiến tranh Triều Tiên nước Mỹ tham gia toàn diện vào cuộc chiến, cung cấp vũ trí cho đồng minh, trực tiếp đưa quân và phương tiện chiến tranh sang tham chiến. Là một nhà phân tích kinh tế ônh biết rõ ảnh hưởng của một cuộc chiến quy mô như thế sẽ tác động như thế nào tới nền kinh tế.
Tổng thống quyết định tăng chi tiêu ngân sách liên bang tài trợ cho quân đội, chi tiêu của chính phủ đã tăng 160% GDP. Nhu cầu về sản xuất thép, sản xuất nhôm, vải vóc…tất cả những nguyên liệu phục vụ sản xuất phương tiện chiến tranh tăng rất nhanh. Những con số thống kê này các nhà phân tích kinh tế có thể lấy được từ các công bố thống kê của chính phủ nhưng ai sẽ đưa ra được mô hình kinh tế phù hợp để phân tích các số liệu đó và đưa ra những phân tích dự báo nền kinh tế trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Với mô hình kinh tế của mình Alan Greenspan đưa ra con số dự đoán quy mô của cuộc chiến tranh, tư số liệu nhu cầu nguyên liệu chiến tranh ông tính toán được số lượng máy bay, số lượng xe tăng, số lượng vũ khí và số lượng quân lĩnh nước Mỹ sẽ sử dụng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Những chi phí của chính phủ để duy trì hoạt động của đội quân trên sẽ ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế Mỹ.

Alan Greeenspan khi đó chỉ là nghiên cứu sinh, một nhà nghiên cứu độc lập không có cơ hội tiếp cận các thông tin tuyệt mật của chính phủ nhưng bằng tài năng của mình ông đã xây dựng mô hình kinh tế dự đoán được các ảnh hưởng của cuộc chiến tới nền kinh tế Hoa Kỳ và nền kinh tế thế giới. Ông đã xuất bản bài phân tích trên tại tờ báo của trường đại học và rất nhiều người đã có cơ hội đọc và chờ kiểm nghiệm những nhận định của ông với nền kinh tế Mỹ sau nhiều năm nữa.

Sau đó nhiều năm khi cuộc chiến tranh kết thúc bộ trưởng quốc phòng người trực tiếp điều hành cuộc chiến tranh ở Triều Tiên đã đọc được bài phân tích của Alan Greenspan. Vị bộ trưởng quốc phòng đã kinh ngạc trước những con số như số máy bay, số xe tăng, số quân lính mà Alan đã đưa ra trong dự báo, nhưng con số đó gần giống con số thực được sử dụng trong cuộc chiến. Thông tin cuộc chiến là thông tin tuyệt mật rất ít người được tiếp cận, bằng trí tuệ của mình Alan dự báo được cả những thông tin tuyệt mật đó. Ở tuổi 25 Alan đã bộc lộ những phẩm chất thiên tài kinh tế, có tầm nhìn hoạt định chính sách tầm quốc gia.

Alan đã được vị cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ chú ý đến tài năng của ông, đó cũng là con đường ngắn nhất để ông được hệ thống Tinh Anh Hoa Kỳ lựa chọn trở thành hạt giống lãnh đạo nước Mỹ 20 năm sau đó.

Tri thức và tầm nhìn của Alan Greenspan bằng văn hóa xuất bản của Mỹ đã giúp ông đạt được thành công, từ một cậu bé sinh ra trong gia đình Do Thái nhập cư từ Châu Âu Alan Greenspan đã vươn tới vị trí quản lý cao nhất của hợp chủng quốc Hoa Kỳ, văn hóa xuất bản của dân tộc đã đưa tài năng của ông lên đỉnh cao quyền lực.

Lobby Vietnam Club: Qua bài viết trên chúng ta có thể học được rất nhiều bài học từ văn hóa xuất bản của Alan Greenspan. Tùy theo công việc mỗi chúng ta đang theo đuổi, mỗi người hãy lựa chọn cho mình phương thức xuất bản hợp lý. Văn hóa phương đông hay phương tây có điểm giống nhau đó là điều có vùng cấm xuất bản. Có nhiều tin tức, sự kiện trong thời điểm nó diễn ra chỉ một nhóm nhỏ giới tinh hoa trong xã hội đó được biết, những thông tin này ảnh hưởng tới sự phát triển ổn định của xã hội, hạn chế xuất bản trong hiện tại là điều khó tránh khỏi. Những thông tin này trở thành một phần của lịch sử mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, nó thường được công bố tới công chúng trong tương lai, sau thời điểm sự kiện xảy ra hàng chục, thậm chí hàng trăm năm. Thông tin đó giờ đây giúp mọi công dân xã hội đánh giá đúng hơn về một sự kiện quan trọng đã diễn ra trong lịch sử. Lobby Vietnam Club rất mong văn hóa xuất bản sẽ được cổ vũ mạnh mẽ với những người đã đọc bài viết này.

Tran Dai Thang
Lobbyist
Mobile: 077.6699.668
Website: http://lobby.vn/
 
Last edited:
Dân tộc vận động hành lang

Dân tộc Do Thái là dân tộc với nhiều bí ẩn, rất nhiều bạn đọc muốn tìm hiểu bí mật thành công của người Do Thái. Trong bài viết này tôi muốn trình bày góc nhìn mới về dân tộc Do Thái, góc nhìn họ là một dân tộc vận động hành lang.

1.Khái niệm Tiền – Tri thức – Trí tuệ của người Do Thái

Trong quá khứ và hiện tại dân tộc Do Thái luôn được gắn với phẩm chất về tri thức và trí tuệ. Dân tộc Do Thái có lẽ là dân tộc giàu có nhất trên thế giới nếu tính đến tài năng. Những cái tên Do Thái có tầm ảnh hưởng đến toàn nhân loại luôn nằm trên đầu các danh sách ở hầu hết mọi lĩnh vực, tư tưởng, chính trị, văn học, giải trí, tài chính.

Do Thái là một dân tộc rất coi trọng trí tuệ. Thành công của họ cũng thường do cực kỳ mưu trí mà giành được, đặc biệt chỉ riêng về doanh nhân Do Thái vai trò của họ đến nền tài chính thế giới đã nói lên tất cả. Những giá trị hữu hình như tài chính tiền tệ có thể rất dễ nhận biết nhưng khái niệm Trí Tuệ lại là một khái niệm rất mơ hồ đụng chạm đến một phạm vi rộng lớn. Nó được định nghĩa không rõ ràng, do đó trí tuệ là gì cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo các doanh nhân Do Thái trí tuệ là gì?

Người Do Thái có một chuyện vui cười nói về mối quan hệ giữa trí tuệ với của cải: Có hai học giả nói chuyện với nhau.


Trí tuệ và tiền bạc cái nào quan trọng hơn ?
Tất nhiên là trí tuệ quan trọng hơn !

Vậy tại sao người có trí tuệ lại phải làm việc cho người giàu có nhiều tiền bạc. Người giàu lại không phải phục vụ người có trí tuệ. Ai cũng đều thấy các học giả triết gia phải chiều lòng theo ý muốn các triệu phú, còn các triệu phú lại có thái độ trịnh thượng đối với người có trí tuệ.

Người có trí tuệ biết được giá trị của tiền bạc, còn triệu phú liệu có luôn hiểu rõ giá trị của trí tuệ? Không thể cho rằng lời nói của học giả thiếu đạo lý bởi con người ta có biết được giá trị của đồng tiền mới đi làm việc cho nhà giàu. Chỉ những ai không biết giá trị của trí tuệ mới lên mặt đối với bậc trí giả. Rất khó thể hiểu được hết ý nghĩa sâu xa của nó bản thân khái niệm của Trí Tuệ và Tiền Bạc là một nghịch lý.

Người có trí tuệ đã biết được giá trị của tiền bạc, vậy tại sao không dùng trí tuệ để kiếm tiền bạc? Biết được giá trị của đồng tiền nhưng vẫn phải dựa vào sự phục vụ các triệu phú để kiếm sống. Trí tuệ như vậy có gì và còn đáng được coi trọng không?

Tuy trí tuệ của các học giả triết gia được gọi là “Trí Tuệ” nhưng không phải là trí tuệ thực sự vì nó không có quan hệ gì với đồng tiền. Trí tuệ phải chịu trước sự kiêu hãnh của đồng tiền sao có thể quan trọng hơn tiền bạc. Trái lại các triệu phú không có trí tuệ như học giả nhưng lại biết chi phối đồng tiền thu nhận được giá trị của nó. Họ có trí tuệ dựa vào đồng tiền để sai khiến trí tuệ của các học giả đó mới là trí tuệ thức sự.

Và người Do Thái đã đưa ra một khái niệm tổng quát về đồng tiền như sau:

Đồng tiền sống có thể không ngừng sinh ra tiền mới, quan trọng hơn, trí tuệ chết không sinh ra tiền. Trái lại trí tuệ sống có thể sinh ra tiền còn đồng tiền chết không thể sinh ra tiền mới. Trí tuệ hoá nhập với đồng tiền được gọi là trí tuệ sống. Đồng tiền hoá nhập với trí tuệ được gọi là đồng tiền sống. Rất khó để phân biệt ngôi thứ giữa trí tuệ sống và đồng tiền sống. Thực tế hai vấn đề này đồng thời là một nó chỉ là một sự kết hợp đầy đủ chặt chẽ giữa nhau.

Xây dựng được mối quan hệ đồng nhất giữa trí tuệ và tiền bạc giúp các thương gia Do Thái trở thành những nhà buôn trí tuệ nhất.


Người Do Thái coi trọng quá trình học tập suốt đời, học tập phải suy nghĩ, họ có thể không cần phải học tập trong các trường chính quy, học có thể tự học để có được tri thức cần thiết. Không phải ai có tri thức cũng có trí tuệ, người có trí tuệ là người biết dùng tri thức mình có để kiếm tiền. Nếu người có trí thức uyên bác mà không biết dùng tri thức đó kiếm tiền thì trí thức đó chỉ là những cái trống rỗng như một kẻ cõng trên mình cả đống sách mà không biết dùng để làm gì thì cũng vô dụng.

Trong lịch sử Do Thái đã từng ghi nhận rất nhiều những tấm guơng cả cuộc đời chưa từng được bước chân vào một trường học chính quy nhưng họ vẫn trở thành những nhân vật giàu có bậc nhất, tri thức tự học và trí tuệ của họ đã làm nên điều đó.

2. Quy luật vận động của tự nhiên

Thế giới vận động theo các quy luật của tự nhiên, muôn loài trên trái đất tồn tại và phát triển phải tuân theo các quy luật tự nhiên đó. Loài vật nào có bản năng sinh tồn mạnh mẽ thì sẽ tồn tại, tiến hóa và phát triển, loài vật nào thụ động không biến đổi kịp với quy luật tự nhiên thì sẽ bị tiêu diệt. Tự nhiên rất đa dạng, ở các vùng đất đồng bằng phù xa mầu mỡ cây cuối rất dễ phát triển, cây cối vùng đất này có đặc trưng là thân mềm, yếu ớt trước sóng gió. Vùng đất khô cằn, núi đá vôi thì cây cối thường phát triển chậm, thân cứng, rắn chắc…đó là nơi các cây gỗ quý như gỗ Lim, pơ mu…

Trong thế giới động vật, con vật nào mà sinh mạng luôn bị đe dọa thì các giác quan chống lại sự săn đuổi của kẻ thù sẽ rất phát triển. Tai thính hơn, mắt sáng hơn, chân chạy nhanh hơn…môi trường sống khắc nhiệt là điều kiện để loài vật tiến hóa nhanh , phát triển để đảm bảo cơ hội tồn tại trên thế giới này, chậm phát triển con vật đó nhanh chóng trở thành miếng mồi ngon của kẻ săn mồi, đánh mất cơ hội tồn tại.

Dân tộc Do Thái được biết đến là dân tộc có bản năng sinh tồn mạnh mẽ, dân tộc lưu vong suốt 2000 năm, bị các dân tộc khác áp bức, bóc lột nhưng họ vẫn tồn tại, phát triển và đạt được những thành tựu vĩ đại cả thế giới ngưỡng mộ.

Người Do Thái được ví như hình ảnh con Tắc Kè, nó phát triển khả năng thay đổi màu sắc cơ thể, đến môi trường nào nó lập tức thay đổi màu sắc để hòa lẫn vào môi trường đó, khả năng này giúp nó trốn tránh kẻ thù. Người Do Thái phải lưu vong từ quốc gia này sang quốc gia khác, họ phải nhanh chóng thích nghi với sự khác biệt về văn hóa, pháp luật, môi trường kinh doanh của quốc gia họ đi đến. Họ hòa nhập và xã hội mới, họ lao động, họ thành công và khi có ảnh hưởng lớn trong xã hội họ đủ khả năng thay đổi môi trường xã hội đó theo cách thức họ mong muốn

Họ vận động các chính sách đạo luật riêng cho cộng đồng Do Thái ở quốc gia họ sinh sống, họ gia nhập nhóm cộng đồng có đóng góp nhiều cho xã hội, được xã hội nể trọng. Ở nhiều quốc gia người Do Thái có ảnh hưởng đến mức có thể coi họ đã tiến hóa từ việc là con mồi trong quá khứ trở thành kẻ săn mồi trong hiện tại.


3. Dân tộc vận động hành lang


Truyền thống văn hóa, tư tưởng tôn giáo Do Thái hàng ngàn năm qua không thay đổi, nó có ảnh hưởng tới mọi hoạt động của mỗi cá nhân người Do Thái.

Dân tộc Do Thái là dân tộc sáng tạo luôn có tư tưởng chinh phục miền đất mới, vùng ảnh hưởng mới. Người Do Thái định cư ở tất cả các châu lục, sinh sống làm ăn ở hầu hết các quốc gia có nền văn hóa, kinh tế lớn và các quốc gia có vị trí địa lý quan trọng trên thế giới.

Người Do Thái có trí tưởng tượng đặc biệt, họ luôn tìm cách sáng tạo ra giá trị mới cho xã hội, những giá trị chưa từng tồn tại trong xã hội loài người. Người Do Thái thành công nổi bật trong lĩnh vực thương mại, tài chính, công nghệ…những lĩnh vực trừu tượng cần trí tuệ và khả năng biến đổi, đọc thời cuộc của dân tộc Do Thái.

Người Do Thái di cư sang Châu Âu sinh sống chủ yếu bằng hoạt động thương mại, họ giúp hoạt động trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia phát triển. mang hàng hóa từ vùng đất này sang vùng đất khác để kiếm lợi nhuận. Mạng lưới người Do Thái phân bố khắp các quốc gia giúp họ tạo quyền lực thương mại đối với các dân tộc khác, họ là dân tộc cung cấp các dịch vụ trung gian, môi giới cho các dân tộc khác.

Ví dụ người Do Thái sống ở Đức và Pháp có liên hệ chặt chẽ với nhau và ngày càng có ảnh hưởng trong xã hội. Khi Đức và Pháp thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược lẫn nhau dân Do Thái đứng ở giữa bán vũ khí, lương thực…cho cả hai bên tham chiến. Những cuộc chiến tranh giúp cho dân tộc Do Thái tích lũy được nguồn vốn khổng lồ đây là nền tảng xây dựng ảnh hưởng dân tộc hùng mạnh đến tận ngày nay.

Dân tộc bản địa với quy mô dân số lớn, có nền văn hóa riêng, có nền sản xuất phát triển là những kẻ viết luật chơi cho xã hội, người Do Thái chỉ là con tắc kè phải thích nghi với các luật chơi biến đổi của dân tộc bản địa. Dân tộc bản địa luôn coi dân Do Thái là dân tộc lật lọng, cơ hội, sau mỗi cuộc chiến nền kinh tế khó khăn thì họ cần dân Do Thái giúp họ thúc đẩy hoạt động thương mại, khôi phục kinh tế. Khi nền kinh tế đi vào ổn định họ không cần dân Do Thái nữa thì họ đưa ra các đạo luật giới hạn hoạt động người Do Thái, xây dựng đạo luật bài Do Thái…cuộc sống và sinh mạng dân tộc Do Thái luôn bị đe dọa…đây cũng chính là môi trường khắc nghiệt, là động lực để người Do Thái sáng tạo phát triển.

Trong quá khư dân tộc Do Thái được xã hội đánh giá là dân tộc môi giới, trung gian giữa các vùng ảnh hưởng. Luôn luôn tìm cách phục vụ lợi ích của ảnh hưởng để tìm con đường sống, tìm lợi ích cho dân tộc. Các khái niệm dân tộc thuyết khách hay dân tộc vận động hành lang cũng là phẩm chất trời phù của dân tộc Do Thái.

Trên trái đất này có hàng ngàn dân tộc sinh sống, mối dân tộc có lịch sử, truyền thống qua hàng ngàn năm, muốn được thế giới biết đến mỗi dân tộc cần tập trung sáng tạo phát triển phẩm chất nổi bật nhất của mình. Đóng gióp các giá trị mới cho nhân loại, những giá trị mà các dân tộc khác phải học tập, phải sử dụng giá trị đó.

Đi tìm giá trị cốt lỗi của dân tộc, lên kế hoạch xây dựng sức mạnh cho giá trị cốt lõi đó là mục tiêu mà không nhiều dân tộc trên thế giới này đạt được. Là người Việt Nam tôi và bạn luôn muốn tìm câu trả lời “Giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam là gì” làm thế nào để xây dựng sức mạnh cho giá trị đó.

Người Do Thái nắm quyền chi phối sức mạnh thương mại, tài chính, công nghệ toàn cầu. Mỗi người Do Thái luôn có trong mình tư duy của một ông chủ, dân tộc Do Thái muốn làm ông chủ của thế giới.

Thương mại: Người Do Thái sở hữu các hãng vận tải lớn trên thế giới ở mọi hình thức vận chuyển như hàng không, đường biển…tư duy của một dân tộc đi buôn, mua đi bán lại mọi loại hàng hóa thế giới cần, mang hàng từ nơi sản xuất dư thừa đến nơi có nhu cầu tiêu thụ

Công nghệ: Người Do Thái đầu tư tiền xây dựng các trường đại học, xây dựng các phòng thí nghiệm để nắm được các công nghệ mới nhất trên thế giới. Tại Mỹ người Do Thái hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm lớn để tài trợ cho ý tưởng sáng tạo, phát minh công nghệ đột phá. Công nghệ là vũ khí tạo cho dân tộc Do Thái sức mạnh chinh phục thế giới nhanh nhất. Người Do Thái là chủ nhân sở hữu rất nhiều công ty công nghệ có ảnh hưởng toàn cầu hiện nay, các ông chủ tài chính Do Thái lựa chọn một người Do Thái tạo hình ảnh lãnh đạo lĩnh vực công nghệ đó

Tài chính: Người ta nói rằng các gia tộc Do Thái chi phối nguồn tài chính toàn cầu, các tập đoàn tài chính, ngân hàng lớn nhất thế giới đều nằm trong tay người Do Thái. Người Do Thái là ông chủ của trung tâm tài chính London, NewYork, dòng tài chính như dòng máu trong cơ thể không có máu cơ thể không thể sống được. Tài chính là hoạt động kinh doanh cao nhất của nền kinh tế, dân tộc nào nắm được lĩnh vực tài chính dân tộc đó sẽ là ông chủ của thế giới

Các dân tộc bản địa khác trên thế giới phát triển dựa vào nguồn tài nguyên, nguồn lao động sản xuất ra hàng hóa phục vụ cuộc sống con người khắp thế giới. Nguồn hàng hóa này muốn đến tay người tiêu dùng thì các nhà sản xuất phải bán lại cho hệ thống các nhà buôn quốc tế, nhà buôn tầm cỡ toàn cầu này chính là các nhà buôn Do Thái. Mua đi bán lại hàng hóa toàn cầu giúp họ kiếm được lợi nhuận còn lớn hơn lợi nhuận của những dân tộc sản xuất ra sản phẩm đó.

Dầu lửa, than đá, hàng may mặc, đồ gỗ, thực phẩm…tất cả hoạt động bị chi phối bởi các tổ chức tài chính


Lobby Vietnam Cub: Dân tộc Do Thái – Dân tộc vận động hành lang với sức mạnh tài chính, công nghệ và giá trị văn hóa truyền thống Do Thái đã viết luật chơi cho nền kinh tế toàn cầu. Vượt qua chính sách của các dân tộc bản địa với quy mô dân số lớn, quá trình lịch sử phát triển dân tộc biết cách đi giữa các vùng ảnh hưởng để sinh tồn. Các bạn có thể đọc qua các cuốn sách “Người Do Thái với thế giới và tiền bạc” – “Trí tuệ Do Thái” để có góc nhìn tổng quan hơn

Tran Dai Thang
Lobbyist
Mobile: 077.6699.668
Website: http://lobby.vn/
 
Last edited:
Quốc gia vận động hành lang

Cuốn sách “Bí quyết hóa rồng” là cuốn tự truyện của nhà sáng lập ra quốc gia Singapo Lý Quang Diệu. Cuốn sách ghi lại lịch sử phát triển Singapo từ ngày lập quốc năm 1965, đọc cuốn sách các bạn sẽ có góc nhìn của bậc nguyên thủ về các xử lý quan hệ với thế giới xung quanh. Lobby Vietnam Club muốn đưa ra góc nhìn Lý Quang Diệu là super lobbyist, siêu anh hùng dân tộc, siêu thuyết khách của thế kỷ 20

I. Hoạt động vận động hành lang cấp chính phủ
1. Cơ cấu sắc tộc tại Singapo


Quốc gia Singapo thành lập sau khi tách khỏi liên bang Malaysia năm 1965. Giới tinh hoa lãnh đạo Singapo là thế hệ trẻ được đào tạo bài bản theo nền giáo dục phương tây tại Anh Quốc. Nhiệm vụ lớn nhất của tầng lớp lãnh đạo quốc gia là giải quyết cân bằng lợi ích giữa các sắc tộc, người gốc Hoa chiếm đa số, người Malay, người Ấn độ, người Indonesia…

Singapo ngày mới thành lập là quốc gia nhỏ bé, hòn đảo nhỏ bé, trong con mắt các quốc gia láng giềng khổng lồ như Malaysia, Indonesia, Úc,Trung Quốc… Singapo phải biết nghe lời. Phong trao dân tộc của người Malay tại Malaysia muốn đánh đuổi người Hoa khỏi Singapo, bảo vệ lợi ích người Malay, thậm chí là xâm lược lại Singapo.

Khi nước Anh lên kế hoạch rút quân đội khỏi Singapo, người ta sợ rằng các chuẩn mực luật pháp, giáo dục xã hội mà nước Anh đã xây dựng ở mảnh đất này sẽ biến mất giống như ngày xưa khi đế chế La Mã rút quân những vùng đất thuộc địa lại trở lại thời kỳ không luật pháp, không chính phủ. Chính phủ Indonesia trong giai đoạn 65, 67 phát ngôn rằng sẽ tự cho phép mình điều quân đội đến đề lập lại các giá trị xã hội tại Singapo, can thiệt vào một quốc gia có chủ quyền, không tôn trọng chính phủ được lãnh đạo bởi Lý Quang Diệu

Tất cả các quốc gia Đông Nam Á bên cạnh Singapo đều sợ hãi một Singapo với 70% là người gốc Hoa sẽ trở thành một Trung Quốc cộng sản hải ngoại. Chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc sẽ gây bạo loạn tại Indonesia, Malaysia nếu không được ngăn chặn ngay từ Singapo. Chính phủ Lý Quang Diệu đã phải thực hiện chiến dịch vận động hành lang liên tục, các nước tin rằng Singapo là một gia theo chủ nghĩa tư bản phương tây, thân thiện với các nước xung quanh, cân bằng lợi ích các bên với Singapo.

Lý Quang Diệu xây dựng cơ cấu tổ chức xã hội ở đó cân bằng được lợi ích sắc tộc người Hoa, Người Ấn, người Malaysia, người Indonesia, hành động này giúp Lý Quang Diệu thuyết phục các quốc gia bên cạnh hay đặt niềm tin ở Singapo. Singapo là một quốc gia độc lập của người dân Singapo, hoạt động vì lợi ích người dân không chịu sự chi phối của bất cứ quốc gia lớn mạnh nào, đặc biệt là từ Trung Quốc cộng sản

Lý Quang Diệu đàm phán thành công với quốc gia Do Thái Israel, quân đội Israel là quân đội nước ngoài đầu tiên giúp đỡ đào tạo, cung cấp vũ khí cho quân đội Singapo. Các tổ chức tài chính Do Thái đã giúp xây dựng Singapo trở thành trung tâm tài chính của Châu Á, gia tộc Do Thái Rothschild & Sons Limited…quản lý quỹ đầu tư nhà nước Temasek của Singapo

Lý Quang Diệu xây dựng cơ cấu các thành viên chính phủ, thành viên trong các lực lượng sức mạnh như quân đội, cảnh sát, các tổ chức kinh tế có đầy đủ lơi ích thành phần sắc tộc là nền tảng sức mạnh để Singapo tập trung vào phát triển kinh tế từ đầu thập niên 70


2. Xây dựng đội quân Lobbyist

Singapo là quốc gia không tài nguyên, đất nước thiếu thốn mọi thứ…đến cả nước uống, nước sinh hoạt cũng phải nhập khẩu từ Malaysia. Chính phủ Lý Quang Diệu xác định con người là nguồn tài nguyên duy nhất, lớn nhất của Singapo, muốn phát triển được Singapo phải biết khai thác nguồn tài nguyên này hiệu quả

Tư duy quản trị một quốc gia như quản trị một doanh nghiệp, Lý Quang Diệu xây dựng chính phủ là các chính khách, doanh nhân có trí tuệ, tư duy thực tế để điều hành quốc gia này sản xuất ra của cải vật chất, tạo ra lợi nhuận

Singapo muốn phát triển thì Singapo phải chơi được với các quốc gia phương Tây, những quốc gia ở rất xa. Anh Quốc, Mỹ, Israel, Đức…là những mục tiêu Singapo phải chơi được

Lý Quang Diệu và ekip của ông đã tuyển chọn những người trẻ tuổi, tài năng trong xã hội đào tạo họ thành đội quân Lobbyist thiện chiến, đi đến mọi ngõ ngách của các nước phương tây mời gọi họ đến Singapo kinh doanh đầu tư

Tình hình chính trị thế giới giai đoạn đó chủ yếu tập trung vào cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam. Nước Mỹ và đồng minh tham chiến ở Việt Nam để chặn đứng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản lan xuống Đông Nam Á. Lý Quang Diệu hiểu rằng hòn đảo Singapo nhỏ bé phải biết chọn một phe để đi theo, ông đã chọn Mỹ và chủ nghĩa tư bản phương tây

Lý Quang Diệu đã đúng, Singapo công khai ủng hộ Mỹ và công kích chủ nghĩa cộng sản. Một hòn đảo nhỏ bé ở một góc rất nhỏ tại Đông Nam Á trở thành đồng minh quan trọng của chủ nghĩa tư bản, quốc gia này xứng đáng để chủ nghĩa tư bản giúp đỡ để phát triển

Đội quân lobbyist của Singapo với tư tưởng ủng hộ tư bản đó đã được thế giới phương tây đồng ý cho gia nhập thế giới tư bản. Lobbyist Singapo đã giới thiệu về nước họ cho các tập đoàn đa quốc gia, Lý Quang Diệu thực hiện các chuyến bay thuyết khách Anh, Pháp, Mỹ, Đức…thuyết phục các tập đoàn đến Singapo

Super Lobbyist Lý Quang Diệu và đội quân lobbyist do ông đào tạo đã gây ấn tượng mạnh mẽ đến các tập đoàn đa quốc gia phương tây. Chưa bao giờ các tập đoàn đa quốc gia lại nhận thấy sự thiện chí, nhiệt tình mời gọi làm ăn như thế từ một quốc gia nhỏ bé thuộc thế giới thứ 3. Sự cam kết của người đứng đầu chính phủ Singapo Lý Quang Diệu đã đảm bảo sự thành công khi làm ăn ở đây

Nguồn nhân sự được đào tạo tốt, một chính phủ cởi mở giúp các tập đoàn đa quốc gia bắt đầu kinh doanh có lãi tại quốc gia này. Lợi nhuận ngày càng lớn, môi trường kinh doanh hấp dẫn tại Singapo vì thế từ đầu những năm 80 thì các doanh nghiệp phương tây tự tìm đến Singapo làm ăn. Singapo trở thành đối tác tin cậy số 1 của các nước phương tây tại Châu Á

15 năm làm việc mệt mài đội quân lobbyist do Lý Quang Diệu đào tạo làm được việc thần kỳ, hình ảnh Singapo từ hòn đảo nhỏ bé, nghèo đói trở thành miền đất hứa, viên ngọc hấp dân nhất trong các mắt các nhà kinh doanh toàn cầu

Singapo đã biết chào bán nguồn tài nguyên lớn nhất của mình đó là con người, tri thức, văn hóa kinh doanh của người dân Singapo

II. Hoạt động vận động hành lang của doanh nghiệp
1. Quốc gia thương mại


Đầu thế kỷ 18 Singapo được một nhà buôn Anh Quốc tìm ra, sau đó các nhà buôn Anh Quốc đã xây dựng đây trở thành cảng trung chuyển hang hóa, chạm dừng chân khi các thuyền buôn từ Ấn Độ Dương sang Trung Quốc và Nhật Bản làm ăn

Ngay từ ngày đầu thành lập hòn đảo này được xác nhận giá trị là một hòn đảo thương mại, hòn đảo tồn tại và phát triển được nhờ vào hoạt động tương tác với thế giới bên ngoài

Lý Quang Diệu và chính phủ của ông xác định biến Singapo trở thành một quốc gia thương mại. Singapo trở thành một phần trong chuỗi phân phối toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia. Singapo xây dựng hải cảng lớn, kho chứa hàng lớn, hệ thống giao thông hiện đại bậc nhất thế giới, Singapo là địa điểm số 1 để các công ty đặt văn phòng đại diện

Mỗi doanh nghiệp, công dân Singapo đều là các chuyên gia bán hàng, họ phải cung cấp các giá trị thỏa mãn yêu cầu của khách hàng. Môi trường kinh doanh tạo ra con người Singapo phẩm chất hoàn toàn khác với công dân các quốc gia láng riềng

Chính phủ và doanh nghiệp Singapo nắm trong tay quyền lực mềm của nhà buôn, họ làm cho dòng chảy hàng hóa khắp thế giới dễ dàng hơn. Hàng hóa từ nhà sản xuất đến tận tay người tiêu dung với chất lượng tốt nhất, giá thành rẻ nhất. Singapo không sản xuất bất cứ sản phẩm nào nhưng lại có thể cung cấp cho khách hàng bất cứ sản phẩm nào khách hàng yêu cầu với giá trị kinh tế cao nhất

Tại Việt Nam các thông tin thương mại trong nước thường khó cạnh tranh lại với các công thương mại Singapo. Rất ít doanh nghiệp biết rằng chính phủ Singapo đã vận động hành lang chính phủ Việt nam, ký kết hiệp định coi công ty thương mại Singapo như công ty nội địa của Việt Nam. Công ty thương mại Việt nam thường phải mua lại hàng hóa thống qua các công ty trung gian của Singapo, chơi theo luật chơi của các công ty thương mại này

Singapo trở thành quốc gia quan trọng trên bản đồ kinh tế toàn cầu, tất cả các quốc gia lớn, bé trên thế giới đều có lợi ích kinh doanh ở đây. Singapo đã dung hòa lợi ích các vùng ảnh hưởng trên thế giới, có rất nhiều bài học từ quá trình phát triển của Singapo cho các quốc gia có vị trí tương tự, đang nằm trong vùng tranh chấp lợi ích của các nước lớn

2. Tính chủ động của doanh nghiệp trong hoạt động quan hệ toàn cầu

Từ đầu những năm 90 Singapo gia nhập hành ngũ các quốc gia phát triển, thu nhập người dân cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Mô hình kinh tế Singapo và thủ tướng Lý Quang Diệu được nhiều quốc gia Châu Á và thế giới ngưỡng mộ

Thủ tướng Lý Quang Diệu được mời đi diễn thuyết cố vấn ở khắp thế giới, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Pakistan coi ông như người bạn lớn, mời ông cố vấn xây dựng một vùng đất nhỏ trong quốc gia họ để thành công như Singapo

Indonesia muốn Singapo giúp phát triển một hòn đảo quy mô lớn hơn Singapo một chút, nằm gần Singapo. Pakistan cũng muốn Singapo giúp phát triển một hoàn đảo khá lớn của quốc gia này nằm trong Ấn Độ Dương trở thành miền đất hứa như Singapo

Triết lý quản trị quốc gia và kinh doanh của Lý Quang Diệu khác hoàn toàn với triết lý quản trị quốc gia của các nguyên thủ quốc gia bạn bè của ông. Với Lý Quang Diệu không phải là thuyết phục thủ tướng hoặc chính phủ Singapo ra lệnh cho doanh nghiệp đến quốc gia đó đầu tư mà các quốc gia đó phải thuyết phục được doanh nghiệp Singapo đến đầu tư. Doanh nghiệp đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu, không có lợi nhuận doanh nghiệp không bao giờ đến

Lý Quan Diệu không thể ra lệnh cho doanh nghiệp Singapo vì nhiệm vụ chính trị các doanh nghiệp Singapo phải giúp những vùng đất trên phát triển như Singapo hiện nay. Vùng đất với những người lãnh đạo thiếu tầm nhìn, thiếu uy tín, nguồn lao đông chưa được đào tạo…không thể một sớm một chiều trở thành một Singapo thứ 2 được

Lý Quang Diệu ngày đầu xây dựng đất nước ông đã đặt nền móng xây dựng các tập đoàn kinh tế Singapo hung mạnh như Singtel, Singapo airline, tập đoàn ngân hàng hoa kiều(OCBC), hãng tàu biển NOL…trở thành những tập đoàn kinh tế hùng mạnh nhất Châu Á. Tất cả các doanh nghiệp Singapo đều nhận được mệnh lệnh nếu không phát triển được sẽ bị chính phủ dẹp bỏ, chính phủ không có tiền để tài trợ cho các doanh nghiệp làm ăn yếu kém

Lãnh đạo các doanh nghiệp lấy đó làm động lực để xây dựng doanh nghiệp mình thành hùng mạnh. Lý Quang Diệu với câu nói đáng nhớ với công ty Singapo Airline, chính phủ Singapo không cần để một hang hàng không với quốc kỳ Singapo bay đến các sân bay trên thế giới, nếu Singapo airline không kinh doanh có lãi nó sẽ bị xóa sổ

Doanh nghiệp Singapo thể hiện tính chủ động tìm kiếm cơ hội làm ăn ở khắp thế giới, doanh nghiệp Singapo đến Việt nam ngay từ những năm sau khi thống nhất đất nước, họ có mặt ở Myanmar một đất nước gần như đóng cửa với thế giới…và mọi ngóc ngách trên thế giới nơi nào doanh nghiệp Singapo tìm thấy lợi nhuận

Doanh nghiệp Singapo chủ động tìm kiếm đầu tư các mối quan hệ chính quyền tại các quốc gia họ tìm thấy lợi ích. Đầu tư vào cac quan hệ cá nhân, quan hệ hậu trường hiệu quả giúp doanh nghiệp Singapo giành được các hợp đồng chính phủ lớn của các chính phủ các nước Châu Á và nhiều người trên thế giới


III. Quốc gia vận động hành lang
1. Quyền lực quan hệ và tài chính


Ngày nay Singapo được biết đến là trung tâm thương mại và tài chính quan trọng của thế giới, hòn đảo quan trọng nhất ở Châu Á. Năm 1965 quốc tịch Singapo chỉ có giá trị đối với mỗi người dân Singapo, quốc tịch Singapo chưa hề có vị thế trong quan hệ toàn cầu. Giờ đây Singapo là quốc gia giàu có, Singapo ký hiệp định miễn Visa với 132 quốc gia trên thế giới, công dân Singapo có thể đi lại làm ăn dễ dàng không bị các thủ tục hành chính cản trở

Quốc tịch Singapo giờ đây rất có giá, rất nhiều ngôi sao lớn của Trung Quốc, Đài Loan nhập quốc tịch. Chính phủ Singapo còn sử dụng tư cách công dân để thu hút người tài khắp thế giới về Singapo. Tại Việt Nam đã hình thành quỹ đầu tư, mục đích kêu gọi các đại gia Việt Nam bỏ vốn đầu tư vào thị trường bất động sản, chứng khoán Singapo, với một mức đầu tư nhất định thì nhà đầu tư hoặc con cái nhà đầu tư sẽ được nhập quốc tích Singapo. Quy chế 2 quốc tịch vừa được chủ tịch nước thông qua, sẽ có rất nhiều đại gia Việt nam tìm cách có thêm quốc tịch Singapo. Kinh doanh quốc tịch, Singapo vừa thu hút được tài chính, vừa thu hút được người tài về nước mình…đó là quyền lực mềm

Singapo nắm trong tay sức mạnh tài chính, quan hệ, thương mại nguồn tài nguyên này đang mang lại sự thịnh vượng cho người dân và đất nước Singapo

Singapo của hiện tại luôn vận động không ngừng, tìm kiếm sang tạo giá trị mới, tạo giá trị cạnh tranh cao hơn cho đất nước. Singapo đi tìm mô hình để duy trình sự thịnh vượng của Singapo trong tương lai

Singapo duy trình và phát triển các quan hệ tốt đẹp trong quá khứ với các quốc gia phương tây đặc biệt là Mỹ. Singapo mở rộng đầu tư vào các quốc gia tiềm năng, sẽ có vị thế cao trên thế giới trong thế kỷ 21 như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam…

Quyền lực và quan hệ xây dựng dựa trên niềm tin của đối tác xung quang về đất nước con người Singapo. Vị thủ tướng và chính phủ của ông suốt 45 năm luôn làm việc hết mình vì lợi ích của các đối tác đến Singapo làm ăn. Chính sách nhất quán, chính phủ quyết tâm tạo dựng môi trường kinh doanh tốt nhất cho mọi đối tác

Dân tộc Singapo xây dựng được hình ảnh tốt đẹp trong con mắt đối tác và nhà đầu tư toàn cầu, tiền và cơ hội sẽ tự tìm đến với Singapo

2. Xây dựng một hệ tư tưởng cho dân tộc phát triển

Một quốc gia được gọi là cường quốc phải hội tụ đủ các yếu tố như quy mô lãnh thổ lớn, quy mô dân số, quy mô nền kinh tế, quy mô hoạt động quân sự.... Singapo gia nhập hàng ngũ các quốc gia phát triển dựa trên tiêu chí thu nhập người dân cao, Singapo chỉ có thể là quốc gia thịnh vượng chứ không thể trở thành một cường quốc

Các nhà lãnh đạo Singapo đã xây dựng chiến lược phát triển cho Singapo trong hiện tại và tương lai. Singapo trở thành quốc gia “Tri thức” nền kinh tế tăng trưởng và tạo ra của cải vật chất cho xã hội dựa trên tri thức

Đầu tư vào giáo dục, công nghệ cao như công nghệ nano, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học…những mục tiêu để thế hệ lãnh đạo ngày nay của Singapo phải hoàn thành.

Thế hệ trẻ Singapo vẫn tiếp bước tư tưởng của Lý Quang Diệu, họ vẫn miệt mài đi khắp ngó ngách thế giới tự giới thiệu về đất nước, con người Singapo, họ tìm kiếm cơ hội, lợi ích cho Singapo

Hình ảnh một quốc gia vận động hành lang, quốc gia với các ý tưởng mới, chính sách quản trị quốc gia sáng tạo. Lý Quang Diệu với tư tưởng quản trị quốc gia thành công bắt đầu từ con người, nhà lãnh đạo từ quốc gia khác có thể tìm thấy phương pháp tiếp cận phù hợp đem lại thành công cho đất nước họ lãnh đạo


Lobby Vietnam Club: Trong một bài phỏng vấn Super Lobbyist Lý Quang Diệu từng nói “Nếu có vị trí số 1 ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. Bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người thì Việt Nam không thể xếp sau nước nào trong khu vực” Trong tình hình địa chính trị thế giới hiện nay Việt Nam đang vùng tranh chấp ảnh hưởng của các trung tâm quyền lực trên thế giới. Nếu đất nước xây dựng được đội ngũ lobbyist giỏi chúng ta sẽ là nhà đàm phán thành công, mang lại lợi ích to lớn cho dân tộc

Tran Dai Thang
Lobbyist
Mobile: 077.6699.668
Website: http://lobby.vn/
 
Last edited:
Bill Clinton & Nội các Do Thái
I. Nhóm lợi ích Do Thái trong hoạt động kinh tế và chính trị Hoa Kỳ

Nước Mỹ là quốc gia của người nhập cư, tại Mỹ có rất nhiều sắc tộc người chung sống. Cộng đồng sắc tộc dù sống ở Mỹ, làm việc và định cư ở đây song những nhóm nhập cư đều giữ mối liên hệ với Đất Mẹ, đất nước mà họ ra đi. Họ tập hợp với nhau để tìm cách tác động lên chính phủ Mỹ nhằm lái chính sách của Mỹ theo hướng tích cực cho chính phủ của họ. Trong số các nhóm hoạt động mạnh nhất hiện nay phải kể đến nhóm người Mỹ gốc Phi, nhóm người Mỹ gốc Ailen, nhóm người Mỹ gốc Hy Lạp…trong đó tiêu biểu nhất và hoạt động mạnh nhất là nhóm Do Thái

1. Lịch sử hình thành nhóm Do Thái ở Mỹ

Người Do Thái tuy đã sớm có mặt trong những dòng người di cư đến Mỹ nhưng đến năm 1800 cộng đồng người Do Thái ở Mỹ mới có 2000 người. Sang thế kỷ 19 người Do Thái từ các nước Châu Âu bắt đầu di cư ồ ạt đến đây để chạy trốn phong trào bài Do Thái đang phát triển mạnh ở các nước Châu Âu, đặc biệt là Đông Âu và Nga

Ngày đầu trên đất Mỹ người Do Thái vẫn chịu sự phân biệt đối xử của nhóm sắc tộc khác, trong khó khăn người Do Thái đoàn kết gắn bó, họ vươn lên trong mọi mặt của đời sống, khẳng định vị trí trong xã hội Mỹ

Đến năm 1940 cộng đồng người Do Thái ở Mỹ lên đến 4,2 triệu, người Do Thái vươn lên mạnh mẽ, tạo dựng sức mạnh kinh tế đáng kể. Người Do Thái thành công nắm giữ, sở hữu, kiểm soát ngành tài chính Mỹ và thành công trong những lĩnh vực ngành nghề cao cấp nhất trong xã hội như khoa học công nghệ, luật sư, bác sỹ, nhà quản lý, nhà tư tưởng, nhà ngoại giao…

Sau chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc người Mỹ nói chung và người Do Thái tại Mỹ đều bàng hoàng trước thảm cảnh mà người Do Thái ở Châu Âu phải trải qua dưới thời Hitlet. Các nhóm Do Thái đã tăng cường hoạt động, vận động không chỉ quốc hội và chính quyền Mỹ mà cả công chúng Mỹ tạo nên sự ủng hộ mạnh mẽ trong nước Mỹ cho việc thành lập nhà nước Do Thái. Đây là một trong những nguyên nhân khiến chính quyền Mỹ đã công nhận Israel chỉ 11 phút sau khi nước này chính thức tuyên bố thành lập

Israel nhà nước đầu tiên và duy nhất của người Do Thái được thành lập đã thu hút người Do Thái từ khắp nơi trở về. Đa phần người Do Thái ở Mỹ đã không di chuyển về sống ở Israel mà vẫn ở lại định cư tại Mỹ. Song họ cảm thấy có trách nhiệm với sự tồn vong và thịnh vượng của nhà nước này. Đây không chỉ đơn thuần là một trạng thái tình cảm mà còn là sự gắn kết chặt chẽ về tôn giáo. Hơn thế nữa ủng hộ nhà nước Do Thái được coi là cách tốt nhất để người Do Thái khẳng định “chất Do Thái” và bản sắc cộng đồng của mình

2. Tiềm lực kinh tế của nhóm Do Thái ở Mỹ

Người Do Thái ở Mỹ có mặt và thành công trong mọi lĩnh vực kinh tế. Người Do Thái trở thành cộng đồng được đào tạo tốt nhất và có thu nhập cao nhất trên toàn nước Mỹ. 37% người Do Thái có thu nhập bình quân trên 85 000 USD/năm trong khi số này chỉ là 13% đối với phần còn lại của dân số Mỹ

Trong lĩnh vực tài chính, lĩnh vực huyết mạch và có vai trò chi phối sự phát triển của nền kinh tế Mỹ hiện đại, người Do Thái đã tạo lập và duy trì được một ảnh hưởng rất lớn. Ba nhà kiến trúc sư quan trọng nhất của hệ thống tiền tệ, tài chính Mỹ hiện nay đều là người Do Thái
.
Paul Warburg người viết đạo luật dự trữ liên bang, Emamuel Goldenweiser người đã điều khiển hoạt động của Cục dự trữ Liên Bang (FED) trong suốt 30 năm đầu và Harry Dexter While người đã có công thành lập quỹ tiền tệ Quốc Tế (IMF). Hiện nay hoạt động của FED phụ thuộc chặt chẽ vào 8 ngân hang của 8 gia đình Do Thái. Với sức mạnh này nhóm Do Thái có thể gây sức ép trực tiếp lên bất cứ một chính quyền nào

Nhóm Do Thái còn nắm giữ sức mạnh khác đó là giới truyền thông, thông tin đại chúng. Người ta tính cứ 36 người Mỹ mới có một người Do Thái song gần như tất cả những người”định hình nên khái niệm về thực tế, về cái tốt và cái xấu, cái có thể và cái không thể cho công chúng Mỹ” đều là những người Do Thái. Họ nắm trong tay 3 công ty lớn nhất trong ngành truyền hình Mỹ là Amerian Broadcasting Companies(ABC), Columbia Broadcasting System(CBS), National Broadcasting Company(NBC) và 8/10 công ty giải trí lớn nhất của Mỹ tiêu biểu là các tập đoàn Time Warner, Walt Disney, Paramount, 20th Century Fox, Columbia Pictures, Viacom Inc và MCA Inc

Người Do Thái cũng nắm trong tay hang chục tờ báo trong đó quan trọng nhất là 3 tờ: Thời báo New York, Nhật báo phố Wall và tờ Bưu điện Washington cùng hang chục các nhà xuất bản sách trên khắp nước Mỹ. Hai đế chế công nghệ và truyền thông của thời đại Internet là Google và Facebook cũng là do người Do Thái sáng lập. Những nhà công nghệ sáng lập đã nhận sự các khoản đầu tư mạo hiểm từ cộng đồng Do Thái giai đoạn đầu để phát triển công ty lớn mạnh như ngày nay


Do hoạt động của chính quyền Mỹ đặc biệt là trong lĩnh vực đối ngoại phụ thuộc và chịu tác động lớn từ những thông tin mà họ có nên nắm được lĩnh vực này nhóm Do Thái đã gián tiếp tác động đến toán bộ hoạt động của chính quyền Mỹ. Bên cạnh đó thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhóm Do Thái còn tác động đến toàn bộ công chúng Mỹ

Người Do Thái với tài năng và trí tuệ của mình qua hàng trăm năm đã nắm giữ và kiểm soát tất cả các giá trị vô hình và là nền tảng sức mạnh quốc gia của Mỹ. Khác với giá trị văn hóa Do Thái, giá trị văn hóa Việt nam thường ủng hộ việc sở hữu các tài sản hữu hình như đất đai, khoáng sản, chiếm hữu tư liệu sản xuất. Gia đình, dòng họ, xã hội thường ngưỡng mộ những cá nhân chiếm hữu được nhiều tài sản nhất, những người cả cuộc đời theo đuổi mục tiêu xây dựng các giá trị vô hình thường không được tôn trọng

Nguồn tài nguyên lớn nhất của người Do Thái đó là nguồn lực con người và nguồn tài nguyên trí tuệ, sang tạo không bao giờ cạn. Đó là nền tảng giá trị tạo nên sức mạnh, thành công trên mọi lĩnh vực của dân tộc Do Thái

3. Mạng lưới quan hệ nhóm Do Thái toàn cầu

Người Do Thái ở Mỹ ủng hộ Israel còn vì một nỗi sợ rằng, một ngày nào đó họ sẽ bị buộc phải rời Mỹ đi tỵ nạn như điều đã từng thường xuyên xảy ra với tổ tiên của họ và với chính họ. Khi đó Israel sẽ là một đảm bảo cho họ rằng dù có chuyện gì xảy ra thì người Do Thái vẫn luôn có một mái nhà thực sự của mình – Nhà nước Israel

Dân tộc có cùng một đức tin, khát vọng, cùng một nền văn hóa lâu đời đó là những giá trị kết nối dân tộc Do Thái suốt 2000 năm lưu lạc khắp thế giới. Mỗi người Do Thái trên khắp thế giới liên kết với nhau tạo nên sức mạnh tập thể, sức mạnh đó giúp họ chiến thắng được các dân tộc hung mạnh trên thế giới có quy mô dân số và lãnh thổ lớn hơn Israel rất nhiều lần

Hệ tư tưởng chính trị cao nhất mà dân tộc này theo đuổi đó là sự to do, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, mọi người dân Do Thái ở khắp nơi trên thế giới có mong muốn đất nước Israel trở nên hùng mạnh, được các dân tộc và quốc gia khác nể trọng

Người Do Thái sống tập trung ở các quốc gia phát triển nhưng tài sản và hoạt động kinh doanh của họ trải rộng khắp toàn cầu. Các tập đoàn kinh tế Do Thái khắp thế giới liên kết với nhau hiệu quả dựa trên đức tin của cả dân tộc giúp cho các tập đoàn kinh tế Do Thái có ảnh hưởng toàn cầu, chi phối các quốc gia khác

Tại Việt nam doanh nhân Do Thái đã có hoạt động kinh doanh mạnh mẽ sau khi Việt Nam mở cửa đầu năm 90, doanh nhân Do Thái đã bắt đầu sở hữu các giá trị cốt lõi của Việt nam như tham gia lĩnh vực thương mại nông sản café, hạt tiêu, gạo, cao su, sở hữu các bất động sản du lịch nổi tiếng…tham gia gián tiếp thông qua hoạt động đầu tư tài chính ở nhiều lĩnh vực của nền kinh tế

II. Quốc hội Mỹ & Vùng đất bị chiếm đóng của Israel

Hệ thống chính trị Mỹ với sự phân chia quyền lực giữa 3 nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp theo hướng “kiểm soát và cân bằng” là điều kiện hình thành và phát triển các nhóm lợi ích

Cơ chế kiểm soát cân bằng không phép bất cứ một nhánh nào giành được quá nhiều quyền lực hoặc sử dụng không đúng quyền lực của mình trong các quyết sách chính trị. Cả tổng thống và quốc hội đều có thể sử dụng nguyên tắc “Một người đề nghị, người kia bác bỏ”

Hiểu được văn hóa chính trị Mỹ các nhóm lợi ích Do Thái có thể tác động đến nhánh lập pháp để ngăn cản hoặc thúc đẩy nhánh hành pháp thực thi một chính sách nào đó hoặc ngược lại

Thượng nghị sỹ, Hạ nghị sỹ Quốc hội tạo dựng ví trí trong quốc hội dựa trên hoạt động thu hút phiếu bầu của cử chi. Để được bầu hay được tái đắc cử các ứng viên phải luôn chứng tỏ mình là đại diện tốt cho quyền lợi của cử chi, bảo vệ các lợi ích của cử chi. Các ứng cử viên cần vận dụng tất cả các kênh vận động tranh để định hướng lá phiếu của cử chi

Trong một nền chính trị thực dụng như ở Mỹ hiện nay các ứng viên phải trông chờ vào sự vận động dồn phiếu của các nhóm lợi ích. Chi phí vận động tranh cử đắt đỏ và ngày càng tăng trong các cuộc bầu cử ở Mỹ buộc các ứng cử viên phải dựa vào sự ủng hộ tài chính của các nhóm lợi ích. Chính vì điểm này nên ảnh hưởng của các nhóm lợi ích càng được tăng cường, đặc biệt khi nhóm có nguồn lực kinh tế mạnh và khả năng huy động phiếu cao như trong nhóm Do Thái

Với sức mạnh kinh tế to lớn cho phép các nhóm Do Thái giữ quan hệ với gần như tất cả các đại biểu quốc hội. Đa số các nghị sỹ quốc hội nhận nhận các khoản đóng góp tranh cử của nhóm Do Thái

Khi các nhóm Do Thái cần vận động chính sách ủng hộ Israel và lợi ích của nhóm Do Thái ở nước Mỹ cũng như toàn cầu, các nghị sỹ thay mặt cho nước Mỹ phải có trách nhiệm trả nợ cho những người đã giúp họ thắng cử

Các nhóm Do Thái trực tiếp đưa người của mình tham gia vào hoạt động của quốc hội Mỹ,. Trong quốc hội luôn có 10% thượng nghị sỹ và 7% hạ nghị sỹ là người Do Thái

Hoạt động vận động hành lang của nhóm Do Thái ở Mỹ hiệu quả đến mức suốt 60 năm từ ngày thành lập nhà nước Israel mọi chính sách của quốc hội và chính phủ Mỹ luôn ủng hộ Israel. Mỹ ủng hộ Israel trên mọi hoạt động ngoại giao quốc tế, thiên vị Israel trong các vấn đề hòa bình Trung Đông. Các nhà ngoại giao quốc tế, đặc biệt là các nhà ngoại giao các nước Arap không thể hiểu nổi tại sao các chính sách đối ngoại của Mỹ luôn bị chi phối với mong muốn của Israel. Người ta cảm tưởng rằng chính sách đối ngoại của quốc hội và chính phủ Mỹ được xây dựng ở Tel Aviv và được thông qua ở Washington. Quốc hội Mỹ như là một vùng đất bị Israel chiếm đóng, hoạt động vì lợi ích của Israel

Thành công của hoạt động vận động hành lang của nhóm Do Thái tại Mỹ là hình mẫu hiệu quả mà các nhóm vận động hành lang nước ngoài khác tại Mỹ theo đuổi


III. Bill Clinton & Nội các Do Thái

1. Sức mạnh tri thức, trí tuệ và năng lực của lãnh đạo Do Thái

Cộng đồng Do Thái còn được biết đến là cộng đồng có chiến lược xây dựng hệ thống lãnh đạo tốt nhất ở Mỹ. Nhóm Do Thái biết cách lựa chọn trong cộng đồng của mình những cá nhân có tố chất lãnh đạo tốt. Ngay từ nhỏ nhóm Do Thái đã sử dụng nguồn tài chính của cộng đồng tài trợ cho các cá nhân có tố chất lãnh đạo này được đào tạo tốt nhất. Học hành trong các trường học danh giá nhất của nước Mỹ, học đại học, thạc sỹ hay tiến sỹ tại các trường đại học hàng đầu nước Mỹ và hàng đầu thế giới

Những nhân tố lãnh đạo này được tạo điều kiện tham gia lãnh đạo trực tiếp các tổ chức kinh tế của người Do Thái ở Mỹ, các tập đoàn ngân hàng, tài chính lớn nhất toàn cầu. Các công ty công nghệ, công ty truyền thông, tập đoàn đa quốc gia…

Những nhân tố lãnh đạo này được thế hệ người Do Thái thành công dìu dắt, được tham gia đóng góp và điều hành các quan trọng khi còn rất trẻ. Từ thực tế nhóm lãnh đạo này đã trưởng thành, họ có năng lực cao hơn rất nhiều so với nhóm bạn cùng trang lứa của nhóm dân tộc khác đang sinh sống trên đất Mỹ

Những cá nhân được lựa chọn này được đào tạo để trở thành nhà lãnh đạo trong các tổ chức kinh tế xã hội trọng yếu của nước Mỹ trong tương lai. Thế hệ lãnh đạo trẻ này sẽ tiếp tục bảo vệ và duy trì lợi ích của người Do Thái ở Mỹ trong tương lai rất xa

Cộng đồng Do Thái ở Mỹ đã thành công hơn cộng đồng các dân tộc thiểu số khá vì họ có tầm nhìn đạo tạo ra những cá nhân có tài năng, trí tuệ đủ tầm lãnh đạo nước Mỹ. Nước Mỹ cường quốc số một thế giới, trở thành nhà lãnh đạo nước Mỹ có nghĩa là các hạt giống lãnh đạo Do Thái trở thành người lãnh đạo thế giới

2. Nội các Do Thái

Nhìn lại lịch sử nước Mỹ và lịch sử chính trị của Bill Clinton chúng ta có thể hiểu được tại sao Bill Clinton có trở thành tổng thống nước Mỹ. Ngay từ khi còn trẻ Bill Clinton đã có tham vọng trở thành một tổng thống Mỹ trong tương lai, ông đã có chiến lược để hiện thực hóa điều đó. Bill Clinton đã tiếp cận được các nhóm lợi ích Do Thái, ông được các nhóm lợi ích Do Thái ủng hộ

Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1992 là cuộc bầu cử đầu tiên ở Mỹ sau thời kỳ chiến tranh lạnh. George H.W. Bush hay còn gọi là Bush Cha lúc đó đã phản đối quốc hội thông qua khoản viện trợ 6,9 tỷ USD để giúp di cư người Do Thái ở Nga và Đông Âu trở về Israel. Ngay lập tức các nhóm vận động hành lang Do Thái đã hành động, ủng hộ Bill Clinton, chi tiền vận động phiếu bầu, loại bở Bush Cha

Bill Clinton trở thành tổng thống Mỹ hai nhiệm kỳ (1993-2001) là một trong những thành công nổi bật của nhóm vận động hành lang Do Thái trong nền văn hóa và chính trị Mỹ

Bill Clinton cần trả ơn những người đã đưa Bill lên, Bill cần xây dựng nội các mạnh giúp ông điều hành nền kinh tế Mỹ phát triển. Cộng đồng người Do Thái đã chuẩn bị sẵn cho Bill những nhà lãnh đạo tài năng nhất nước Mỹ để Bill đưa vào hệ thống chính quyền của mình

Chính phủ của Bill Clinton được coi là chính phủ thân Do Thái nhất trong lịch sử nước Mỹ, 35 % thành viên nội các của Bill là người Mỹ gốc Do Thái. Người Do Thái đã gọi đây là “Thập kỷ vàng của người Do Thái trong nền chính trị Mỹ”, chỉ trong 8 năm cầm quyền Bill Clinton đã bổ nhiệm số quan chức Do Thái bằng tất cả số các quan chức mà tất cả các đời tổng thống trước đã từng bổ nhiệm

Quan chức Do Thái có mặt ở trong tất cả các vị trí nhạy cảm như

-Bộ trưởng Bộ ngoại giao
-Bộ trưởng Bộ tài chính
-Bộ trưởng Bộ quốc phòng
-Bộ trưởng Bộ thương mại
-Bộ trưởng Bộ Lao động
- Bộ trưởng Nông nghiệp
- Giám đốc CIA

Thành viên hội đồng an ninh quốc gia, cố vấn an ninh quốc gia, đại sứ Mỹ ở hơn 30 quốc gia quan trọng trên thế giới là người Mỹ gốc Do Thái. Người Do Thái tác động lên chính sách đối ngoại của Mỹ với thế giới, chính sách đối ngoại của Mỹ trở thành vũ khí bí mật hỗ trợ các tập đoàn kinh tế Do Thái mở rộng ảnh hướng đến mọi ngóc ngách thế giới

Nước Mỹ với vai trò siêu cường số một thế giới về kinh tế, chính trị, quân sự, các chính sách của chính quyền Mỹ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, sự ổn định chính trị và an ninh của nhiều quốc gia trên thế giới

Chính phủ một quốc gia nước ngoài có chiến lược xây dựng đội ngũ vận động hành lang tại Mỹ điều hiểu rằng “Hiểu và tác động đến chính sách của chính phủ hay thái độ của Mỹ có thể sẽ đem đến các khoản viện trợ kinh tế, quan sự quan trọng, cơ hội để mua vũ khí hay sự hậu thuẫn tối cần thiết tại các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế và Liên Hợp Quốc”

Chính phủ nhiều quốc gia đã vận động thành công khi họ biết phải chơi với nhóm lợi ích nào đủ năng lực tác động lên chính sách đối ngoại Mỹ. Nhóm lợi ích Do Thái được các chính phủ nước ngoài lựa chọn, xây dựng kênh quan hệ lợi ích mật thiết để vận động các chính sách đối ngoại có lợi cho họ như quyền tiếp cận nguồn tài chính Mỹ, tiếp cận công nghệ và thị trường Mỹ…

Mối quan hệ ngoại giao, chính trị và lợi ích kinh tế của Việt nam với Mỹ ngày càng lớn, thương mại 2 chiều năm 2010 đạt gần 18 tỷ USD. Hoạt động vận động hành lang Việt nam tại Mỹ ngày càng quan trọng, phương thức tiếp cận vận động hành lang của Việt nam như thế nào doanh nghiệp và người dân không hề biết. Xây dựng cơ chế thông tin như thế nào để doanh nghiệp và mỗi công dân Việt hỗ trợ chính phủ thực hiện các chiến lược vận động hành lang thành công tại Mỹ. Chính phủ Việt nam giành được các chính sách ưu đãi đặc biệt cho chính phủ và quốc hội Mỹ sẽ mang lại cơ hội phát triển rất lớn cho cả nền kinh tế Việt nam

Lobby Israel Club: Bài viết được hoàn thành dựa trên tư liệu một trong những khóa luận suất sắc nhất của Học Viện Ngoại Giao Việt Nam trong 10 năm gần đây của tác giả Phạm Quốc Đạt. Khóa luận phân tích làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Mỹ với Israel và ảnh hưởng của các nhóm lợi ích Do Thái trong nền chính trị Mỹ

Tác giả cho rằng trong một thế giới phát triển và thay đổi liên tục như hiện nay những kiến thức về hoạt động ngoại giao, kiến thức về các nền chính trị quốc tế, yếu tố chính trị của từng quốc gia trên thế giới không còn là kiến thức đặc thù, chỉ một nhóm người tinh hoa trong xã hội biết đến. Kiến thức ngoại giao chính trị quốc tế cần phổ biến để mỗi người dân có hiểu biết về thế giới, mỗi cá nhân sẽ xây dựng chiến lược xác định giá trị của mình trong mối quan hệ toàn cầu đó

Mỗi công dân Việt nam có tư duy, chiến lược toàn cầu sẽ giúp cho nền kinh tế Việt nam hội nhập toàn cầu nhanh nhất và sẽ mang lại nhiều thành công hơn nữa cho quá trình phát triển đất nước



Tran Dai Thang
Lobbyist
Mobile: 077.6699.668
Website: http://lobby.vn
 
Last edited:
Mô hình lãnh đạo Đàn Ong - Đàn Ruồi

Thưa Thầy !

Trên thế giới có những dân tộc khi nhìn vào khuôn mặt, khí sắc, trí tuệ của từng cá nhân của dân tộc đó thì rất tốt nhưng đất nước do người dân tộc đó xây dựng thì phát triển không tương xứng với năng lực của mỗi cá nhân, nhiều đất nước còn ở mức kém phát triển

Có dân tộc khi nhìn vào khuôn mặt, khí sắc, trí tuệ của từng cá nhân thì kém hơn những dân tộc khác nhưng đất nước do người dân tộc đó xây dựng thì rất phát triển, cuộc sống người dân ấm no…một quốc gia giàu có thịnh vượng, được sự nể trọng của cộng đồng quốc tế, có đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của nhân loại

Thầy Chu Văn An trả lời “Tất cả là do người lãnh đạo đất nước” Lãnh đạo quốc gia sẽ quyết định sự phát triển quốc gia và của dân tộc ấy.

Lãnh đạo đất nước quản trị người dân theo mô hình của Đàn Ong thì dân tộc đó, đất nước đó sẽ phát triển và thịnh vượng.

Lãnh đạo đất nước quản trị người dân theo mô hình của Đàn Ruồi thì dân tộc đó, đất nước đó sẽ không thể phát triển được .

Những lời dạy của các Cụ trong không gian đều rất ngắn gọn nhưng chứa đựng hàm lượng tri thức vô cùng lớn. Mỗi một học trò dựa vào nền tảng trí thức của mình sẽ hiểu và vận dụng lời dạy từ không gian vào công việc vào cuộc sống của mình để xây dựng sự nghiệp, xây dựng gia đình phát triển và thịnh vượng

Thưa Thầy ! Cá nhân con đã suy nghĩ rất nhiều về lời dạy trên của Thầy Chu Văn An, con suy nghĩ để lời Thầy Chu Văn An dạy ứng dụng vào việc xây dựng một doanh nghiệp. Để một doanh nghiệp phát triển thành công phải bắt đầu tư người lãnh đạo doanh nghiệp và văn hóa hoạt động của doanh nghiệp đó. Trong bài viết này con mong muốn trình bày một phần tư duy mà con đã hiểu và mô hình hóa được

1. Hệ tư tưởng quản trị của tự nhiên

Từ xưa đến nay tự nhiên là trường học lớn nhất của con người, mỗi loài trong tự nhiên muốn phát triển cũng tự xây dựng cho mình các quy tắc và mô hình quản trị riêng. Khi được nghe lời dạy từ không gian chúng ta có thể quan sát thiên nhiên để mở rộng góc nhìn và tư duy quản trị…đây là những bài học giá trị

a. Hệ tư tưởng quản trị của Đàn Ong

Khi quan sát nghiên cứu đàn Ong các nhà khoa học đã khẳng định, đây thực sự là một tổ chức xã hội thu nhỏ. Ong Chúa là con ong có vị trí lãnh đạo cao nhất của đàn ong, ong Chúa là con ong duy nhất có nhiệm vụ sinh sản, tạo ra nhiều con ong nhất có thể cho tổ chức. Ong Chúa có nhiệm vụ tạo dựng và duy trì kỉ cương, các con ong khác tự nguyện thực hiện kỷ cương đã được thống nhất một cách vô điều kiện.

- Ong Thợ có nhiệm vụ xây dựng và mở rộng tổ, bảo vệ đàn, bảo vệ tổ
- Ong Cái có nhiệm vụ tìm phấn hóa, tạo mật nuôi sống toàn bộ các thành viên trong đàn

Ong chúa thông qua việc tạo ra các thế hệ ong con đã có mô hình quản trị hoàn hoản, Ong Chúa tạo ra số lượng Ong Thợ, Ong Bảo vệ, Ong Cái phù hợp, trong gen của mỗi con Ong đã được giao nhiệm vụ rõ ràng, mỗi con phải hoàn thành các nhiệm vụ được giao

Khi đàn Ong bị tấn công tất cả các con Ong đều tham gia chiến đấu, bảo vệ Ong Chúa, bảo vệ tổ, bảo vệ đàn…một tổ chức mà các thành viên sống chết vì nhau…Ong Chúa có tuổi đời từ 5 đến 6 năm

“Mật Ong” là sản phẩm mà tổ chức xã hội loài Ong tạo ra cho tự nhiên, mật Ong là thức ăn quý cho con người và các loài vật khác trong tự nhiên

b. Hệ tư tưởng quản trị của Đàn Ruồi

Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta nhìn thấy đàn ruồi nhiều hơn đàn Ong, chúng ta thấy ruồi ở khắp nơi

Khi quan sát tự nhiên chúng ta thấy đàn ruồi không có tổ, đàn ruồi không có Chúa tức là không có người lãnh đạo, đàn ruồi không xây dựng được một tổ chức xã hội tức là không có kỉ cương. Trong đàn ruồi có nhiều con ruồi cái, mỗi con ruồi cái đều có khả năng đẻ trứng và tạo ra các con ruồi con.

Khi có một miếng ăn chúng ta thấy cả đàn ruồi lao vào kiếm ăn, không có trật tự, không có người lãnh đạo và lúc nào cũng chỉ tranh nhau ăn. Trong xã hội loài ruồi mỗi cá thể là độc lập, tự lo kiếm ăn, tự lo bảo vệ. Đàn ruồi khi sinh ra đến khi chết đi không tạo ra cho tự nhiên một giá trị gì cả…tuổi đời của con ruồi chỉ 3 đến 4 tuần

2. Hệ tư tưởng quản trị doanh nghiệp

Thưa Thầy ! Việc tổ chức và xây dựng một doanh nghiệp phát triển lâu dài, mang lại sự thịnh vượng cho các thành viên trong doanh nghiệp là một việc khó

Từ lời dạy của Thầy Chu Văn An con mới thực sự hiểu để xây dựng doanh nghiệp phát triển phải xây dựng được hệ thống lãnh đạo của doanh nghiệp đầu tiên. Người lãnh đạo cao nhất phải là người như thế nào, các cấp lãnh đạo phía dưới phải là người như thế nào ?

Trong doanh nghiệp những người lãnh đạo cao nhất chính là hội đồng quản trị và các cổ đông sáng lập. Trước đây con nghĩ chỉ cần những người có cùng chí hướng, cùng điểm chung là có thể hợp tác với nhau để thành lập doanh nghiệp, để xây dựng doanh nghiệp thành công. Từ khi theo học Thầy con biết ngoài những yếu tố trần tục thì các yếu tố về tâm linh, về năng lượng có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp lớn mạnh. Các cổ đông sáng lập doanh nghiệp nếu có mức năng lượng tương đồng thì công ty sẽ có 1 tập thể lãnh đạo mạnh, sáng suốt, các cổ đông sẽ làm việc vì nhau, vì công ty

Lãnh đạo công ty sẽ cùng nhau xây dựng ra văn hóa quản trị của công ty, hệ thống lãnh đạo cấp dưới và nhân viên của công ty sẽ làm việc trong môi trường văn hóa này. Ở góc độ năng lượng thì văn hóa quản trị công ty chính là 1 dạng năng lượng, năng lượng này sẽ tác động tích cực đến nhân viên trong công ty và đối tác đến làm việc với công ty

Lãnh đạo công ty đều mong muốn học hỏi hệ tư tưởng quản trị của Đàn Ong để xây dựng nên hệ quản trị đối với doanh nghiệp của mình. Trong tổ chức mỗi thành viên trong công ty hiểu được vị trí và nhiệm vụ mình phải thực hiện. Mỗi thành viên khi hoàn thành nhiệm vụ được giao đã tạo dựng nền móng vững mạnh để tổ chức phát triển

Ở xã hội đàn Ong không có hoạt động tích lũy tư bản…một việc khó của lãnh đạo doanh nghiệp trần tục là lãnh đạo phải xây dựng được quy tắc phân chia các nguồn lợi công ty tạo ra một cách hài hòa cho các thành viên tham gia xây dựng công ty. Công ty tạo ra môi trường để mỗi cá nhân phát huy năng lực công hiến cho sự phát triển của công ty và hơn thế nữa văn hóa công ty tạo ra môi trường khởi nghiệp cho mỗi nhân viên

Mỗi nhân viên được công ty hỗ trợ phát triển ý tưởng riêng, từ ý tưởng trở thành một doanh nghiệp tạo ra giá trị mới cho xã hội. Lãnh đạo doanh nghiệp phải xây dựng một hệ sinh thái mở cho phép doanh nghiệp của mình hợp tác bình đẳng với doanh nghiệp do nhân viên của mình sẽ thành lập trong tương lai…

Xa hơn nữa một dân tộc thành công, một đất nước thành công bắt đầu tư mô hình một doanh nghiệp thành công. Hệ tư tưởng quản trị của đàn Ong là một bộ gen đầu tiên đặt nền móng thành công cho doanh nghiệp và cho đất nước trong tương lai
 
Last edited:
Top