What's new
Vietnam - Điện Biên Phủ Kinh Tế

This is a sample guest message. Register a free account today to become a member! Once signed in, you'll be able to participate on this site by adding your own topics and posts, as well as connect with other members through your own private inbox!

Chiến lược biển Việt Nam

thoidaianhhung

Administrator
Tổng quan biển Việt Nam

Việt Nam có diện tích hơn 330,000 km² bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.200 km² biển nội thuỷ, với hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền khoảng trên 1 triệu km².

28 trong số 64 tỉnh/thành phố nước ta nằm ven biển, diện tích các huyện ven biển chiếm 17% tổng diện tích cả nước và là nơi sinh sống của hơn 1/5 dân số cả nước.

Việt Nam là quốc gia có 3 mặt giáp biển, đặc biệt trong đó Biển Đông đóng vai trò sống còn Đây là một trong 6 biển lớn nhất của thế giới, nối hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, có 9 quốc gia bao bọc: Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Đây cũng là con đường chiến lược của giao thương quốc tế, có 5/10 tuyến đường hàng hải lớn nhất của hành tinh đi qua. Hàng năm, vận chuyển qua biển Đông là khoảng 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu từ Trung Đông và Đông Nam Á, khoảng 45% hàng xuất của Nhật, và 60% hàng xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Theo những nghiên cứu do Sở môi trường và các nguồn lợi tự nhiên Philippine, vùng biển này chiếm một phần ba toàn bộ đa dạng sinh học biển thế giới, vì vậy nó là vùng rất quan trọng đối với hệ sinh thái.

Biển Việt Nam có hơn 2000 loài cá, trong đó có gần 130 loài cá giá trị kinh tế cao và hàng trăm loài được đưa vào sách đỏ VN và thế giới, 1600 loài giáp xác, 2500 loài thân mềm, cho khai thác 45000-50000 tấn rong biển …

Bên cạnh ý nghĩa địa lý và sinh thái, Biển Đông còn có ý nghĩa kinh tế cực kỳ quan trọng. Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng phát biểu về thuỷ sản Việt Nam: Kinh tế thuỷ sản tăng trưởng liên tục bình quân 5-7%/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2006 tăng 250 lần so với năm 1981. Năm 2006, tổng sản lượng thuỷ sản đạt gần 3,7 triệu tấn, chủ yếu khai thác từ biển (1,8 triệu tấn) và nuôi nước lợ (1 triệu tấn).

Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 đạt 1 tỉ USD, năm 2002 là 2 tỉ USD, 2005 đạt 2,5 tỉ USD, 2006 là 3,7 tỉ USD, và năm 2007 ước đạt 4 tỉ USD, thuộc 10 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu thuỷ sản.

Cũng vào năm 2020, thuỷ sản phấn đấu tăng trưởng kinh tế gấp 2 lần hiện nay (khoảng 7 tỉ USD), trong đó 70% tỉ trọng vẫn từ vùng nước lợ và biển. Cho nên đòi hỏi đẩy mạnh đánh bắt xa bờ, duy trì đánh bắt gần bờ hợp lý, tăng cường nuôi trồng thuỷ sản trên biển theo công nghệ cao kết hợp với chuyển dịch cơ cấu sản xuất trên biển …

Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020

Trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, phải phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế

Xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối với sự phát triển của cả nước. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 – 55% GDP, 55 – 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển.

Từ chỗ sống nhờ vào biển, Việt Nam đã vươn mình lên làm chủ tài nguyên biển, đã biến mình thành 1 cường quốc mới về thuỷ sản mới trong khu vực Ngành thuỷ sản cũng phục vụ cuộc sống cho hàng triệu đồng bào ngư dân từ Bắc chí Nam.

Nhắc đến khai thác tài nguyên biển còn phải kể đến khai thác dầu và khí đốt thuộc thềm lục địa lãnh thổ nước ta. Số liệu Bộ ngoại giao Việt Nam cho biết: Tổng tiềm năng dầu khí tại các bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Cửu Long, Ma lay - Thổ Chu, Vùng Tư Chính - Vũng Mây… đã được xác định tiềm năng và trữ lượng đến thời điểm này là từ 0,9 đến 1,2 tỷ m3 dầu và từ 2.100 đến 2.800 tỷ m3 khí. Trữ lượng đã được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỷ m3 khí. Trữ lượng khí đã được thẩm lượng, đang được khai thác và sẵn sàng để phát triển trong thời gian tới vào khoảng 400 tỷ m3. Với các biện pháp đồng bộ, đẩy mạnh công tác tìm kiếm - thăm dò, khoảng từ 40 đến 60% trữ lượng nguồn khí thiên nhiên của nước ta sẽ được phát hiện đến năm 2010.

Hiện nay, ngành Dầu khí nước ta đang khai thác dầu khí chủ yếu tại 6 khu mỏ bao gồm: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bunga Kekwa - Cái Nước và chuẩn bị chính thức đưa vào khai thác mỏ khí Lan Tây …

Có thể xem giá dầu mỏ hiện nay là nhân tố chính quyết định nền kinh tế và hoà bình của toàn thế giới. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Hãng British Petroleum, nếu với tốc độ khai thác như bây giờ thì trữ lượng dầu mỏ đã được thăm dò của Canada, Việt Nam và Anh sẽ cạn kiệt sau 6 năm, Nauy – 8 năm, Mỹ – 11 năm, Turkmenistan – 12 năm, Nga – 19 năm, Kazakhstan – 27 năm, Mêhicô – 21 năm, Nigiêria – 20 năm và Qatar – 55 năm. Trữ lượng dầu mỏ của Ảrập Xêút còn khai thác được 85 năm, Các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất - 114 năm, Kuwait – 127 năm và Irắc – 128 năm. Hơn bao giờ hết, dầu mỏ đang trở thành vũ khí của 1 quốc gia, và cũng là miếng mồi béo bở ngoại bang nhòm ngó

Có thể nói, sự kết hợp của vị trí địa kinh tế rất thuận lợi với đường lối phát triển khai thác biển hợp lý trong những năm qua, Việt Nam đã và đang phát huy vị thế một quốc gia biển, đảm bảo 1 nền kinh tế ổn định và thịnh vượng.
 
Last edited by a moderator:
Tư duy biển

Việt Nam có 3200 km bờ biển, diện tích hơn 1 triệu Km2 đó là nguồn tài nguyên vô cùng lớn hầu như chưa được khai phá.

Nhìn xa hơn một chút ra thế giới, khái niệm cá nhân giàu có và quốc gia giàu có. Một cuốn sách đã chia sẻ rằng để trở thành một cá nhân giàu có nhất của một vùng nào đó, cá nhân đó phải nắm trong tay các nguồn tài nguyên quý giá nhất của vùng đất đó. Cá nhân tạo dựng tài sản từ việc xây dựng một chiến lược khai thác hiệu quả nhất nguồn tài nguyên đó, đó chính là vũ khí để họ giành chiến thắng trên thương trường.

Để trở thành người giàu nhất của một quốc gia. cá nhân đó phải nắm trong tay nguồn tài nguyên quí giá nhất của quốc gia đó, lợi thế so sánh giữa quốc gia này so với quốc gia khác. Có thể đưa ra đây một vài ví dụ:

- Người giàu nhất nước Pháp là người nắm trong tay ngành công nghiệp thời trang cao cấp, nước hoa cao cấp, sản phẩm xa xỉ phục vụ giới thượng lưu khắp thế giới. Tài nguyên lớn nhất của nước Pháp chính là các thương hiệu xa xỉ phẩm, nó đem lại lợi thế cạnh tranh toàn cầu cho sản phẩm của cá nhân đó trên toàn thế giới...họ giành chiến thắng trên thương trường nhờ những giá trị được xây dựng tích lũy hàng trăm năm của dân tộc Pháp.

- Người giàu nhất nước Nga là người nắm trong tay nguồn tài nguyên dầu mỏ, khi đốt, công nghiệp khai khoáng...đây là những nguồn tài nguyên thượng đế đã ban cho nước Nga. Nguồn tài nguyên được hình thành hàng trăm triệu năm trước và giờ đây cá nhân đó khai thác biến nó thành giá trị tài sản phục vụ cuộc sống.

- Người giàu nhất nước Mỹ: Quốc gia của lĩnh vực tài chính và công nghệ, người giàu nhất nước Mỹ là cá nhân làm việc trong hai lĩnh vực này. Tài chính và công nghệ chính là hai nguồn tài nguyên có ưu thế tuyệt đối của Mỹ so với thế giới. Những tài sản hữu hình như đất đai, tài nguyên dầu mỏ, khoáng sản hầu như đã chia phần xong những người trẻ tuổi không có cơ hội gì trong miếng bánh lớn đó cả, họ chỉ còn mảnh đất khô cằn nhưng đầy hấp dẫn là tài chính và công nghệ để có thể đào bới tìm kiếm cơ hội gia nhập thế giới giàu có. Nguồn tài nguyên lớn nhất họ phải khai thác đó chính là trí tuệ và lợi thế cạnh tranh sản phẩm trí tuệ của người Mỹ trên thị trường toàn cầu.

- Việt Nam một quốc gia có không ít nguồn tài nguyên để cho thế hệ trẻ có cơ hội nhảy vào khai thác tạo lập tài sản cho mình. Những miếng bánh bao gồm những nguồn tài nguyên như: dầu khí, khoáng sản, đất đai...đã chia hết rồi...hầu như không còn cơ hội cho người đến sau. Nếu thế hệ trẻ nào vẫn quyết tâm nhảy vào những lĩnh vực đó thì có cố mấy cũng khó trở thành người giàu nhất Việt nam được, phải tranh giành khốc liệt, đầy nguy hiểm mới có cơ hội chiến thắng.

+ Một đất nước nhiệt đới với nhiều sản phẩm nông nghiệp giá trị như hạt tiêu, gạo, cafe, điều, cao su...một số sản phẩm Việt nam có sản lượng lớn, có thể viết luật chơi, chi phối giá cả cho thị trường thế giới. Hiện tại vẫn thiếu một công nghệ chế biến hiệu quả và thiếu khả năng thực hiện phân phối hiệu quả sản phẩm ra toàn cầu. Khó khăn là dân đông, nhà nhà di cư, phá rừng, đất đai cằn cỗi...

+ Quốc gia có dân số đứng thứ 13 thế giới, con người là nguồn tài nguyên vô tận nhưng sức mạnh của nguồn tài nguyên đó phụ thuộc vào quá nhiều yếu tố.

+ Tài nguyên biển Việt Nam: 3200km bờ biển mới được khai thác dưới dạng đánh bắt gần bờ, nuôi thủy sản gần bờ, khu nghỉ mát ven biển, khu nghỉ mát tại các hải đảo, đánh bắt xa bờ đầy rủi do vì bão và công nghệ khai thác lạc hậu...

Tổng quan lại: Espromote nhận thấy những miếng bánh trên đất liền đã có quá nhiều người tham gia rồi, biển Việt nam có lẽ là miếng bánh đang bị bỏ hoang nhiều nhất vì ít người có năng lực để khai thác biển. Chúng ta gạt qua vấn đề khai thác dầu khí đó là lĩnh vực quá lớn...nghiên cứu tìm hiểu công nghệ có thể khai thác biển hiệu quả sẽ là thị trường vô tận trong tương lai.

Anh em cùng thảo luận nhé...đừng nghĩ rằng đây là vấn đề xa vời...nó là tư duy rất thực tế.
 
Last edited by a moderator:
Việt Nam: Đất nước nơi bờ sóng

- Trong tương lai, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển có cơ cấu phong phú, hiện đại với tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao.

Khi còn trong nôi nghe mẹ ru cha đánh giặc cuối trời,

Khi ta cầm súng ra đi, người thân ta thao thức cùng sao trời

Thương đất nước bao năm vẫn hát câu tiễn biệt…

Thương đất nước bao năm vẫn khát khao xây dựng…

Câu hát ấy mãi âm vang trong trái tim mỗi người lính đảo và trong bất cứ ai đã từng một lần đứng trước biển. Mỗi chúng ta, thuở thiếu thời hẳn đã từng hơn một lần nghe truyền thuyết mẹ Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, nở được một trăm người con trai. Năm mươi người con theo mẹ lên rừng, năm mươi người con theo cha xuống biển. Truyền thuyết ấy đã nói lên vai trò quan trọng và khát vọng chinh phục biển Đông của người dân nước Việt từ ngàn đời nay. Trong thời kỳ hội nhập phát triển kinh tế toàn cầu hiện nay, chúng ta là con Lạc cháu Hồng đã, đang và sẽ thực hiện thành công khát vọng chinh phục biển Đông của cha ông ta thuở trước.

Việt Nam - đất nước mang dáng hình chữ S, với bờ biển trải dài 3.260 Km; vùng đặc quyền kinh tế rộng hơn 1 triệu Km2 với hơn 3000 hòn đảo, được xếp thứ 27/157 quốc gia ven biển trên toàn thế giới. Do vùng biển rộng nên ranh giới biển nước ta giáp với vùng biển của nhiều nước như: Trung Quốc, Philippin, Malaysia, Brunây, Inđônêxia, Thái Lan và Cămpuchia.Vùng biển nước ta có chiều rộng được tính từ mép nước sát bờ lục địa đến phía Đông hai quần đảo Hoàng Sa (huyện Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng) và quần đảo Trường Sa (huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà), với khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ các loại. Diện tích các đảo rộng khoảng l.700 km2.; có 82 hòn đảo rộng hơn l km2; có 23 đảo có diện tích trên l0 km2; có 3 đảo có diện tích trên l00 km2.

Hệ thống đảo hình thành một vòng cung rộng lớn chạy suốt từ vùng biển Vịnh Bắc Bộ đến vùng biển quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, quần đảo phía Nam và Tây Nam của đất nước, được chia thành 3 nhóm chính: Đảo xa bờ gồm: Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Yết, Sinh Tồn, Bạch Long Vỹ, Côn Đảo, Thổ Chu. Đảo tuyến giữa: Cô Tô, Lý Sơn, quần đảo Nam Du, Cù Lao Thu (Phú Quý), Phú Quốc... Đảo ven bờ: Cái Bầu, Cát Bà, Cồn Cỏ, Hòn Tre, Hòn Khoai...

Chính hệ thống đảo này đã tạo nên tuyến phòng thủ tiền tiêu trên biển trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh trên biển. Bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, đảo quốc gia là một nhiệm vụ quan trọng chiến lược của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Bờ biển Việt Nam chiếm gần trọn bờ Tây của biển Đông - một vùng biển được coi là con đường chiến lược về giao lưu và thương mại quốc tế, là tuyến hàng hải quan trọng thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực.

Vùng biển Việt Nam có tiềm năng dồi dào về nhiều lĩnh vực: Khoa học - công nghệ biển; Khai thác tài nguyên biển; Phát triển các ngành kinh tế biển; Nguồn nhân lực. Theo các nhà nghiên cứu dự báo năm 2020 Kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam phát triển nhanh và sẽ ở trình độ cao.

Thực tế cho thấy trình độ kỹ thuật của các ngành kinh tế biển ở nước ta đã, đang và sẽ phát triển tốt. Các ngành: Công nghiệp hoá dầu, Kinh tế hàng hải, Đóng tàu, Du lịch biển… được trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại.

Dưới lòng biển Việt Nam được xác định có triển vọng dầu khí lớn trữ lượng khoảng 3-4 tỷ m3 dầu quy đổi. Công nghiệp khai thác dầu khí ở nước ta đang được phát triển mạnh. Hệ thống cảng và vận tải biển dọc bờ biển: Cái Lân, khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Nghi Sơn, Hòn La - Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải, Hòn Chông, Phú Quốc, cảng sông Cần Thơ nhằm khai thác thế mạnh bờ biển, phát triển ngành vận tải biển.

Thiên nhiên ưu đãi cho chúng ta dọc bờ biển có khoảng 125 bãi biển lớn và nhỏ (có khoảng 20 bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế). Điều này vô cùng thuận lợi cho ngành Du lịch biển.

Với hơn 1 triệu Km2 vùng đặc quyền kinh tế nước ta có nguồn tài nguyên thuỷ hải sản phong phú có giá trị kinh tế cao như: Cá biển, tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển… với 2.000 loài khác nhau (trên 100 loài có giá trị kinh tế). Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho ngành khai thác, đánh bắt thuỷ, hải sản phát triển.

Chúng ta có trên 37 vạn ha mặt nước biển có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như tôm, cua, rong câu… Riêng diện tích cho nuôi tôm nước lợ có tới 30 vạn ha. Ngoài ra còn hơn 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ như Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Phá Tam Giang, Vịnh Văn Phong… là môi trường rất thuận lợi để phát triển nuôi cá và đặc sản biển. Những sản phẩm đánh bắt, khai thác, nuôi trồng thuỷ, hải sản không chỉ phục vụ cho thị trường trong nước mà còn chiếm lĩnh những thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới, mang lại nguồn lợi lớn cho kinh tế nước nhà.

Biển còn cung cấp cho ta muối và các hoá phẩm biển chủ yếu là các loại muối như NaCl, MgCl, MgCO, CaSO, K2SO, CaCO, MgBr… Trong đó có chủ yếu là NaCl là nguồn thực phẩm tối cần thiết của cuộc sống và nguyên liệu để điều chế các hoá phẩm công nghiệp khác. Theo đánh giá sơ bộ, tiềm năng diện tích để phát triển đồng muối vùng ven biển nước ta rộng 50 - 60 ngàn ha.

Nói đến tiềm năng của biển không thể không nói đến nguồn nhân lực dồi dào của các cư dân sống ven biển và trên đảo. Dự báo đến năm 2020 dân số biển có khoảng 31,4 triệu người, trong đó lao động khoảng gần 19 triệu người. Đây là nguồn lực lớn để chúng ta khai thác những thế mạnh và tiềm năng của biển.

Nghị quyết 4 khoá X của Đảng về chiến lược biển Việt Nam đã xác định:

Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.

Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chính vì biển, đảo Việt Nam có vị trí địa lý tầm chiến lược trong khu vực và là kho báu vô giá mà thiên nhiên ban tặng nên từ trước đến nay khu vực này vẫn là nơi mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch cùng đồng minh dòm ngó với mưu đồ bành trướng, nhằm tranh chấp tài nguyên và tạo thế lực trên khu vực biển đảo Việt Nam nói riêng, biển Đông và Thái Bình Dương nói chung.

Khai thác tiềm năng, phát triển kinh tế biển và bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh hải là nhiệm vụ quan trọng không chỉ của lực lượng vũ trang mà của toàn dân tộc. Trong đó những lực lượng trực tiếp bảo vệ biển, đảo là: Hải quân, Cảnh sát biển, Không quân, Bộ đội Biên phòng và Dân quân tự vệ biển.

Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, ngư dân đi biển đã từng là những tay súng xuất sắc, là những con “mắt thần” góp phần đánh đuổi tầu, máy bay địch và tiêu diệt biệt kích xâm phạm vùng biển, vùng trời của ta. Ngày nay, ngư dân khai thác thuỷ, hải sản không chỉ góp phần làm giầu cho xã hội mà còn là những chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ chủ quyền vùng lãnh hải của Tổ quốc. Bởi vậy, xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ biển mạnh là nhu cầu cần thiết góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển ngày càng vững chắc.

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của biển Việt Nam và nhiệm vụ phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên vùng lãnh hải, thềm lục địa, vùng đặc quyền về kinh tế trong việc phát triển kinh tế biển cần phải gắn liền với bảo vệ biển đảo; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân trên biển.

Nước ta có 28 tỉnh (thành phố), với 119 huyện, (thị xã) có biển đảo, có 11 huyện đảo và 50 đảo có dân (khoảng 155.000 dân đang sinh sống). Hằng ngày có khoảng hơn 70.000 tầu thuyền có công suất từ 10-40 mã lực trở lên hoạt động khai thác thuỷ, hải sản ở tuyến gần, khơi và lộng; có khoảng 423.500 người thường xuyên lao động và tham gia các hoạt động khai thác tài nguyên trên biển. Các ngành khai thác kinh tế biển càng phát triển, nguồn nhân lực lao động ven biển và trên biển, đảo ngày càng đông. Đây chính là nguồn lực rất dồi dào để chúng ta có thể xây dựng lực lượng dân quân tự vệ biển vững mạnh góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển vững chắc.

Biển Đông với nguồn tài nguyên quý báu; con người Việt Nam với trí tuệ và quyết tâm chinh phục biển cả sẽ khai thác mọi tiềm năng của biển đưa nước ta giàu, mạnh lên vào những năm 20 của Thế kỷ 21. Con người Việt Nam với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” sẽ quyết tâm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, gìn giữ những gì mà cha ông ta đã tạo dựng nên không cho phép bất luận thế lực nào xâm phạm.

Việt Nam - Đất nước nơi bờ sóng

Đất nước bao trận thắng!

Mãi mãi là niềm tin. Ôi Việt Nam…!

cpv
 
Last edited by a moderator:
Để trở thành cường quốc biển - Cơ hội từ Vân Phong
Với vị trí thuận lợi, việc xây dựng và đưa vào hoạt động cảng Vân Phong (Khánh Hòa) được coi là cơ hội lớn để VN trở thành trung tâm hậu cần của khu vực và thế giới trong tương lai gần.

Theo các chuyên gia hàng hải, vịnh Vân Phong ở vị trí cực đông của bờ biển VN, gần ngã ba đường hàng hải quốc tế, cạnh các tuyến châu Á - Bắc Á, châu Úc - Đông Bắc Á và Đông Nam Á - Đông Bắc Á. Về phương diện hàng hải, dọc theo bờ biển VN, vịnh Vân Phong nằm gần các trục đường hàng hải quốc tế nhất. Hơn nữa, lại nằm ở khoảng cách trung bình tới các cảng biển VN và các trung tâm trung chuyển lớn của khu vực. Do đó, vịnh Vân Phong là điểm hội tụ lý tưởng của các cảng vùng bán đảo Đông Dương và khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Một lợi thế nữa của cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong là nằm gần quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt.

Ông Phạm Anh Tuấn - Giám đốc dự án Công ty CP tư vấn thiết kế cảng - kỹ thuật biển (Portcoast, đơn vị lập quy hoạch hệ thống cảng biển VN) - nhận xét, vũng Đầm Môn thuộc vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi để xây dựng cảng nước sâu quy mô lớn cho tàu trọng tải lên đến 200.000 DWT. Đây cũng là địa điểm thích hợp nhất để hình thành, phát triển cảng trung chuyển container quốc tế cạnh tranh với các đầu mối trung chuyển hiện có trong khu vực như Singapore, Hồng Kông, Cao Hùng (Đài Loan), Tanjung Pelepas (Malaysia)...

Giảm gần 100 USD/teu

Theo ông Tuấn, hiện nay, hệ thống cảng biển VN chưa có nơi nào đủ điều kiện tiếp nhận tàu chở container sức chở lớn vận hành xuyên đại dương. Do vậy hàng xuất nhập khẩu đi châu Âu, Bắc Mỹ (chiếm khoảng 30%) buộc phải trung chuyển qua Singapore hoặc Hồng Kông. Chi phí tiếp chuyển bình quân tăng khoảng 94 USD/TEU so với chuyển thẳng và thời gian cũng kéo dài thêm 6 - 7 ngày.

Trong tương lai, khi cảng Vân Phong hình thành, một lượng hàng xuất nhập khẩu khổng lồ của VN và các nước trong khu vực vận hành trên các tuyến xuyên đại dương đi châu Âu, Bắc Mỹ sẽ trung chuyển qua đây, thay vì đi qua các đầu mối trung chuyển hiện có như Hồng Kông, Singapore... Ngoài ra, một nguồn container dồi dào của Khu kinh tế Vân Phong và lân cận vận hành trên các tuyến biển gần cũng sẽ quá cảnh qua đây. Đối với nguồn hàng trong nước, vai trò của cảng Vân Phong chủ yếu là hỗ trợ cho các cảng cửa ngõ, đầu mối; đảm nhận tiếp chuyển hàng container xuất nhập khẩu vận hành trên các tuyến biển xa bằng cỡ tàu lớn mà các cảng cửa ngõ và đầu mối không có khả năng tiếp nhận hoặc năng lực thông qua không đáp ứng nổi.

Phát huy lợi thế giá rẻ

Trong khi VN đang gấp rút chuẩn bị khởi công xây dựng 2 bến dài 690m thuộc giai đoạn khởi động tại Vân Phong thì Singapore đã triển khai kế hoạch xây dựng thêm 18 bến cho tàu lớn để nâng năng lực thông qua từ 24,8 triệu TEU (2006) lên khoảng 50 triệu TEU vào năm 2018. Hồng Kông cũng có kế hoạch xây dựng thêm 12 bến để nâng năng lực thông qua lên 40 triệu TEU vào năm 2020. Đây sẽ là thách thức lớn đối với sự phát triển của cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong trong việc thu hút hàng container của các nước lân cận ở khu vực đến trung chuyển tại cảng. Trong bối cảnh đó, việc đẩy nhanh tiến độ triển khai cảng Vân Phong là hết sức cần thiết để bắt kịp cơ hội và nhu cầu vận chuyển hàng hải. Một vấn đề quan trọng nữa là phải tính toán đến lợi thế cạnh tranh của Vân Phong khi cảng này đi vào hoạt động.

Theo phân tích của một chuyên gia kinh tế, Vân Phong sẽ không chỉ phải cạnh tranh với cảng Hồng Kông và Singapore (đang mở rộng) mà còn với nhiều cảng trung chuyển quốc tế tầm cỡ khác như Busan (Hàn Quốc), Thượng Hải (Trung Quốc), Cao Hùng và Keelung (Đài Loan), Klang và Tanjung Pelepas (Malaysia), Laem Chabang (Thái Lan). Theo ông Phạm Anh Tuấn, để tăng tính cạnh tranh, yếu tố hấp dẫn là chi phí vận tải tiếp chuyển thu gom đi hoặc đến Vân Phong phải thấp hơn so với các cảng khác. Kết quả phân tích, tính toán theo từng tuyến vận tải và so sánh chi phí vận tải cho thấy, khả năng hấp dẫn của Vân Phong là hàng container đi biển xa của Campuchia (qua cảng Sihanoukvile), Bruney (qua cảng Muara) và một phần của Philippines (qua cảng Manila). Đây cũng là điểm cần phải chú ý để khai thác.

Một chuyên gia ngành hàng hải cũng cho rằng, các cảng Klang, Tanjung Pelepas và Laem Chabang không có khả năng làm hàng hiệu quả và khả năng kết nối vào các tuyến hàng hải quốc tế như Singapore nên chú trọng đầu tư vào diện tích khai thác cảng và giá nhân công rẻ. Đây sẽ là phương thức cạnh tranh cần xem xét, vì lợi thế mà Vân Phong có được cũng chính từ diện tích xây dựng và nguồn nhân công dồi dào. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất là yếu tố ảnh hưởng đến năng suất làm hàng của cảng. Đây là những yếu tố mà các hãng tàu lớn sẽ chú ý khi chọn tuyến trên hành trình của mình.

Dự án cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong với tổng mức đầu tư hơn 3,6 tỉ USD, do Tổng công ty hàng hải VN làm chủ đầu tư, được chia làm 4 giai đoạn:

- Giai đoạn khởi động: xây dựng hai bến tàu với tổng chiều dài bến 690m, diện tích cảng 41,5 ha, có khả năng tiếp nhận tàu container sức chở tới 9.000 TEU, đáp ứng lượng hàng thông qua 0,71 triệu TEU/năm. Năm 2013 sẽ đưa công trình vào hoạt động.

- Giai đoạn I (2015): đáp ứng lượng hàng thông qua 1,05 - 2,1 triệu TEU/năm. Cảng được xây dựng gồm 4 bến cho tàu container sức chở đến 9.000 TEU và 5 bến cho tàu chở hàng chuyển tải. Tổng diện tích toàn cảng khoảng 118 - 125 ha, tổng chiều dài bến 1.680 - 2.260m.

- Giai đoạn II (2020): đáp ứng lượng hàng thông qua 4,0 - 4,5 triệu TEU/năm. Cảng được xây dựng gồm 8 bến cho tàu container sức chở đến 12.000 TEU và 8 bến cho tàu chở hàng chuyển tải. Tổng diện tích toàn cảng 405 ha, tổng chiều dài bến 4.450 - 5.170m.

- Giai đoạn tiềm năng: Khả năng lượng hàng thông qua toàn cảng khoảng 14,5 - 17 triệu TEU/năm. Cảng được xây dựng hoàn chỉnh gồm 25 bến cho tàu container sức chở đến 15.000 TEU và 12 bến cho tàu chở hàng chuyển tải. Tổng diện tích toàn cảng 750 ha, tổng chiều dài bến 11.880 - 12.590m. Ngoài ra, cảng có hệ thống đường nội bộ nối mạng quốc gia dài khoảng 20 km
 
Last edited:
Lãnh ấn tiên phong

- Vài ngày tới đây, tỉnh Quảng Nam sẽ đồng loạt khởi công nhiều dự án, chính thức khởi động chương trình “Vẽ lại bản đồ kinh tế - xã hội ven biển” nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời cải thiện đời sống của hơn 10 vạn nông dân đang sinh sống trên khu vực này.

Đây là địa phương đầu tiên trong cả nước được Chính phủ tin cậy giao thực hiện thí điểm, trước khi triển khai rộng rãi trong khu vực miền Trung nói riêng và cả nước nói chung. Như vậy, tiếp theo sau mô hình “kinh tế mở” được xây dựng tại Chu Lai, chính quyền và người dân Quảng Nam một lần nữa lãnh “ấn tiên phong” khai phá con đường mới trong công cuộc phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.

Trong những năm qua, duyên hải miền Trung đã trực diện với ảnh hưởng xấu do biến đổi khí hậu, với mức độ ảnh hưởng ngày càng lớn như bão lũ, hạn hán liên tục... năm sau lớn hơn năm trước. Từ sự cảnh báo chung, cũng như chủ trương của Nhà nước gần đây về vấn đề này, Quảng Nam đã sớm trình Chính phủ một dự án chủ động ứng phó với BĐKH.

Theo ông Đỗ Xuân Diện - Phó ban thường trực Ban quản lý, sắp xếp dân cư ven biển Quảng Nam - thì chương trình kinh tế ven biển của địa phương có thể được coi gần với việc “sắp xếp lại giang sơn”.

Nội dung chương trình ngoài ý nghĩa bố trí lại dân cư toàn vùng ven biển, để chủ động phòng tránh, giảm nhẹ thiệt hại thiên tai đối với đời sống người dân mang tính xã hội, đồng thời sau đó tiến hành tái tạo sử dụng toàn bộ quỹ đất sau khi sắp xếp, để đầu tư phát triển công nghiệp sạch, công nghệ cao, du lịch là cả một công cuộc kinh tế lớn.

Ngoài ra sự song hành giữa chương trình với công cuộc phát triển Khu kinh tế mở Chu Lai, sẽ xây dựng tại đây một “trục động lực” ven biển phía đông, phù hợp với quy hoạch quốc gia về vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

Dự kiến, tổng chi phí cho chương trình kinh tế ven biển trong năm 2010 sẽ không ít hơn vài nghìn tỉ đồng - một con số không nhỏ và dường như quá sức với một tỉnh còn khó khăn như Quảng Nam; quan trọng nữa, 10 vạn dân trong phạm vi chương trình rồi sẽ đối mặt với một núi những bộn bề lo toan cho một “giang sơn mới”.

Nhìn lại lịch sử gần, trong thời bao cấp, Quảng Nam cũng là một trong những vùng đất đầu tiên dám “xé rào” tiếp cận với cơ chế thị trường sớm, với phong trào khoán sản phẩm trong nông nghiệp; hay mở ra chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm, với hàng loạt công trình thủy điện đầu tiên trong cả nước ở Duy Sơn, Duy Trinh... Xa hơn - trong những năm thế kỷ 14, 15 - dân đất Quảng Nam cũng là người đi trước trong hành trình “mở đất” về phương Nam của dân tộc.

Với khí chất mạnh mẽ, dám nghĩ, dám làm trong lịch sử... liệu Quảng Nam có thực hiện thành công công cuộc “ sắp xếp lại giang sơn” như mong mỏi của chính quyền trung ương và địa phương hay không, không chỉ phụ thuộc vào truyền thống, vào sự đồng thuận của người dân đối với chủ trương, mà còn cần sự cân nhắc cẩn trọng, đầy tâm huyết của các cơ quan chính quyền và bộ, ngành có liên quan
 
Last edited:
Thương hiệu biển

Toàn bộ dải đất hình chữ S của VN đều có “mặt tiền” hướng biển với 3.260 km bờ biển và hơn 3.000 hòn đảo, quần đảo; diện tích mặt biển gấp 3 lần diện tích đất liền. Thật khó có quốc gia nào gắn bó với biển hơn VN. Nhưng phải thừa nhận rằng “tâm thức biển” ở chúng ta chưa thật sự ám ảnh, và “ý thức biển” ở chúng ta chưa đủ sâu đậm cũng như “khoa học-kinh tế biển” của chúng ta chưa được nghiên cứu và lập trình rốt ráo để VN có thể cất cánh từ chính lợi thế biển của mình.

Hội thảo diễn ra hôm nay tại Quảng Ngãi về Thương hiệu biển VN lần thứ 2, với chủ đề “Từ cảng nước sâu đến khu kinh tế biển” (do Tổng cục Biển và hải đảo VN phối hợp với Ban quản lý khu kinh tế Dung Quất tổ chức) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một thương hiệu biển VN.

Đây đúng là việc mà cả nhà nước và nhân dân phải cùng làm, trong đó những cơ quan chức năng có trách nhiệm thảo ra những chương trình xây dựng thương hiệu một cách khoa học và đồng bộ; tiến hành từng bước hoạt động xây dựng thương hiệu. Còn các địa phương cùng nhân dân đang tham gia làm kinh tế biển trong toàn cõi VN thì cần ý thức một cách rõ ràng sự cấp thiết phải xây dựng thương hiệu biển cho tất cả hoạt động kinh tế biển.

Như lâu nay, mỗi con cá được ngư dân đánh bắt khi xuất khẩu bị người ta truy tầm xuất xứ, thì câu trả lời của doanh nghiệp xuất khẩu lại như phát biểu hồn nhiên của ngư dân: đánh bắt từ biển chứ đâu! Nhưng bây giờ những quốc gia nhập khẩu thủy hải sản của VN lại yêu cầu chúng ta phải xuất trình được “chứng minh thư” của từng mặt hàng thủy hải sản, nói rõ chúng được nuôi trồng ở đâu, trong những điều kiện như thế nào, được đánh bắt ở vùng biển nào, có bị ô nhiễm hay không?

Tóm lại, mỗi mặt hàng từ biển của VN khi muốn ra thế giới đều phải chứng minh được tính minh bạch và sự “trong sạch” của mình, cũng như chứng minh được chúng không phải là những mặt hàng bị khai thác cạn kiệt bất chấp sự sống của môi trường thiên nhiên.

Khoa học xây dựng thương hiệu biển sẽ giúp cấp “chứng minh thư” cho tất cả những hoạt động kinh tế biển, giúp hàng hóa biển của VN ra thế giới một cách đàng hoàng, minh bạch, thân thiện. Mọi sự ép giá hay kiện cáo vì xuất xứ hàng hóa khi đó sẽ không thể còn xảy ra với hàng hóa biển VN.

Xây dựng thương hiệu cũng sẽ giúp cho các trung tâm kinh tế, các nhà máy công nghiệp hướng biển, các thành phố biển và các khu du lịch nghỉ dưỡng ven biển VN trở nên quen thuộc, được mặc định vào tâm thức không chỉ của các doanh nhân mà của một phần lớn nhân loại, được thế giới biết đến ngày càng rộng hơn và sâu hơn. Điều đó sẽ giúp mọi hoạt động kinh tế, đặc biệt là kinh tế biển VN thuận lợi hơn rất nhiều khi hội nhập đa chiều với thế giới.

Những mặt hàng phong phú từ biển của VN một khi có thương hiệu sẽ được giá và ổn định giá gấp nhiều lần so với khi chúng chưa có thương hiệu, và sẽ được đón nhận không chút e dè hay nghi hoặc bởi những người tiêu dùng hay doanh nhân trên khắp thế giới.

Những vấn đề cấp thiết được đề cập sâu trong hội thảo nhằm hướng đến việc xây dựng một cách khoa học và đồng bộ thương hiệu biển VN cho mọi hoạt động kinh tế biển và cho những vùng địa-kinh tế-biển. Đây là việc không thể không làm nếu muốn đưa hình ảnh VN, kinh tế biển và chủ quyền lãnh hải VN ra thế giới, hội nhập cùng thế giới
 
Last edited:
Tiến ra biển, đảo bằng khoa học công nghệ

Bộ Tài nguyên và Môi trường đang tiến hành cuộc điều tra khảo sát về tiềm năng biển đảo, Thứ trưởng thường trực Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Văn Đức thông tin với Đất Việt.

- Thưa ông, ông có thể cho biết những tiềm năng về kinh tế của biển đảo Việt Nam ?

- Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.200 km, rộng trên một triệu km2 với khoảng 3.000 đảo. Theo Chiến lược biển, đảo Việt Nam tới năm 2020, khu vực đảo, biển đảo sẽ là động lực phát triển của nền kinh tế.

Tiềm năng của biển đảo Việt Nam ngoài dầu khí, còn có sa khoáng ven biển, titan ở thềm lục địa, từ độ sâu 30 m trở lên. Dưới sâu lòng biển có khí hydrate, hay còn gọi là khí đóng băng, băng cháy. Chúng tôi đang tiếp tục điều tra khảo sát để có những thông tin chính xác, cụ thể về tiềm năng biển đảo. Sau khi có kết quả điều tra, các đảo sẽ được phân loại để tập trung phát triển kinh tế, phát triển du lịch hoặc phát triển an ninh quốc phòng.

- Việt Nam sẽ khai thác các tiềm năng của biển đảo bằng phương cách nào?

- Chúng ta tiến ra biển bằng khoa học kỹ thuật và hợp tác quốc tế. Không thể điều tra, khảo sát và khai thác tiềm năng biển nếu không có các công nghệ hiện đại. Thủ tướng Chính phủ đã ký đề án 80, cùng với đề án 47 về điều tra, quy hoạch, khảo sát, đánh giá tiềm năng vùng ven biển, kế hoạch chiến lược biển sẽ được thực hiện nhanh hơn.

Tới đây, khoảng tháng 4, tháng 5, chúng tôi (Bộ Tài nguyên và Môi trường - pv) sẽ công bố những nghiên cứu về biển đảo, trong đó, có cả các nghiên cứu về khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu. Khi nghiên cứu biển đảo, vai trò của thông tin khí tượng rất quan trọng, bởi nó tác động đến sự tan băng, sự nóng lên của khí hậu...

- Ông đánh giá thế nào về hiệu quả khai thác biển đảo của Việt Nam?

- Từ trước đến nay, việc khai thác tiềm năng biển đảo mới được chú ý về lượng. Thời gian tới phải khai thác sao cho có chất lượng. Tức là phải tạo nhiều giá trị gia tăng trên nguồn lực sẵn có. Trước đây, có thể nói chúng ta chỉ lấy công làm lãi, nên hiệu quả còn thấp so với các nước khác.

- Khi phát triển kinh tế biển đảo, người dân ở đây sẽ được hưởng lợi thế nào?

- Kinh tế biển luôn hướng tới đảm bảo giải quyết đời sống cho người dân biển đảo. Hiện đời sống diêm dân, ngư dân đều nghèo, mong muốn của Chính phủ và các Bộ ngành là làm sao để đời sống người dân được cải thiện, chứ không chỉ là nâng cao GDP cho địa phương. Chính vì thế, phương hướng phát triển là để người dân ở biển đảo có thu nhập cao nhờ vào những sản phẩm họ làm ra
 
Last edited by a moderator:
Việt Nam phấn đấu thành quốc gia mạnh từ biển

Hiện nay, Tổng cục Biển và Hải đảo đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật tài nguyên và môi trường biển phục vụ công tác quản lý việc khai thác, sử dụng biển và hải đảo

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã chỉ rõ, phải phấn đấu để Việt Nam trở thành quốc gia mạnh lên từ biển, giàu lên từ biển, trong đó kinh tế biển chiếm khoảng 53-55% GDP và 55-56% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Từ 1 đến 8/6/2010, Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam lần thứ II sẽ được Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong cả nước tổ chức nhằm góp phần nâng cao nhận thức một cách toàn diện, sâu rộng trong xã hội về vai trò, vị trí chiến lược của biển, hải đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Tiềm năng

Việt Nam nằm ở phía tây Biển Đông, có bờ biển dài hơn 3.260km và hơn 3.000 hoàn đảo. Vùng biển Việt Nam là một phần của Biển Đông, diện tích mặt biển rộng hơn 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền.

Với hình thể đất nước hẹp chiều ngang, trải dài theo hướng á kinh tuyến, toàn bộ lãnh thổ đất liền của nước ta có thể ví như” vùng duyên hải” và tạo ra một lợi thế ”mặt tiền” hướng biển - thuận lợi cho giao thương và hội nhập kinh tế quốc tế.

Biển Việt Nam rất giàu tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan đẹp, bao gồm cả tài nguyên sinh vật và phi sinh vật, những giá trị vật thể và phi vật thể, các chức năng và dịch vụ hệ sinh thái biển và ven biển. Những tài nguyên đó là những thế mạnh và cơ sở để phát triển các ngành kinh tế biển khác nhau.

Vì thế biển đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Biển Việt Nam có mức độ đa dạng sinh học tương đối cao với nhiều hệ sinh thái cửa sông đặc thù, hệ sinh thái đất ngập nước, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm cỏ biển dọc từ Bắc vào Nam và quanh các đảo lớn, nhỏ. Đây là những nơi có điều kiện lý tưởng để các loài sinh vật biển sinh sống và phát triển, tạo nên nguồn lợi hải sản phong phú và đa dạng.

Biển và hải đảo gắn bó mật thiết và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế-xã, đảm bảo quốc phòng an ninh, bảo vệ môi trường. Các thế hệ người Việt đã gắn bó với biển và có cuộc sống phục thuộc vào biển cả, đặc biệt đối với người dân sống ở các huyện ven biển và hải đảo (chiếm 17% tổng diện tích và khoảng 30% dân số cả nước).

Việc sử dụng biển và hải đảo ở Việt Nam đã mang lại nhiều lợi ích về kinh tế-xã hội và có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân, chiếm khoảng 48% tổng GDP của Việt Nam (năm 2005), chủ yếu từ các ngành kinh tế biển như: dầu khí, thủy sản, đóng tàu, du lịch và các dịch vụ kèm theo.

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mang lại, việc sử dụng biển, ven biển và hải đảo ở Việt Nam vẫn chưa thực sự hiệu quả và bền vững do các hoạt động phát triển vùng ven biển thiếu quy hoạch, thiếu các kế hoạch đầu tư mang tính tổng thể, đặc biệt là trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Quản lý thống nhất

Tháng 3/2008, Chính phủ Việt Nam đã thành lập Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường để thực hiện chức năng quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo, bao gồm cả các vùng ven biển trên khắp đất nước.

Tổng cục luôn xác định công tác quản lý khai thác, sử dụng biển phải được đẩy mạnh và gắn kết chặt chẽ với công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về phát huy các thế mạnh, tiềm năng tài nguyên biển và hải đảo.

Đây là hai trụ cột để Tổng cục phát huy được vai trò là cơ quan đầu mối giúp bộ làm tốt trách nhiệm điều phối giữa các cấp, ngành, địa phương trong hệ thống quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu cũng như tăng cường mối quan hệ giữa Chính phủ với cộng đồng và doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề lợi ích kinh tế-xã hội một cách hài hòa, bền vững.

Hiện nay, Tổng cục đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật tài nguyên và môi trường biển phục vụ công tác quản lý việc khai thác, sử dụng biển và hải đảo, quy hoạch tổng thể sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; xây dựng đề án thương mại hóa các thông tin, dữ liệu biển, đảo phù hợp với cơ chế thị trường.

Đây sẽ là những công cụ quản lý nhà nước rất quan trọng để sớm chấn chỉnh, đưa các hoạt động khai thác, sử dụng biển, đảo vào nề nếp góp phần phát huy cao nhất hiệu quả quản lý nền kinh tế biển.

Thời gian tới, công tác tuyên truyền biển, đảo về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam, trong đó lĩnh vực xây dựng quảng bá thương hiệu biển Việt Nam cần được đẩy mạnh nhằm củng cố và góp phần nâng cao tỷ trọng phát triển nền kinh tế biển và vị thế quốc gia biển Việt Nam.

Xuất phát từ quan điểm phải gắn kết xây dựng, quảng bá thương hiệu biển Việt Nam với chủ trương đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường, phó giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Văn Cư, Tổng cục trưởng, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam khẳng định, Tổng cục sẽ luôn đồng hành cùng với các bộ, ngành, các địa phương, các hiệp hội kinh tế và các doanh nghiệp có hoài bão vươn ra biển, làm giàu từ biển để sớm đưa Thương hiệu biển Việt Nam từng bước đạt đẳng cấp khu vực và quốc tế
 
Last edited:
Phải giàu lên từ biển

- Sự hiện diện của Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết tại lễ khai mạc Festival Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2010 tổ chức tại bãi biển Nhật Lệ - thành phố Đồng Hới - Quảng Bình ngày 4.6 đã truyền đi một thông điệp quan trọng rằng Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam luôn luôn và mãi mãi có những chiến lược, chính sách ứng xử nhất quán, tôn trọng đối với biển và hải đảo của quốc gia

Chủ tịch Nước vui mừng vì đời sống của một bộ phận đồng bào sống bằng nghề biển đang khá lên từng ngày, cũng như các hoạt động bảo vệ chủ quyền lãnh hải, tài nguyên môi trường biển, hải đảo đang ngày càng chính quy, hiện đại

Tuy nhiên, những kết quả này chưa tương xứng với tiềm năng. Việt Nam là 1 trong 20 quốc gia trên thế giới có vùng biển giàu tiềm năng mang lại sự giàu có. Từ góc độ đó, cần có một cuộc tổng kiểm thảo sâu sắc, toàn diện về những việc chưa làm, chưa làm được hoặc làm, nhưng chưa tốt trong suốt thời gian dài vừa qua, mà hậu quả là tiềm năng biển vẫn đang ngủ quên, lãng phí

Với hơn 3.200km bờ biển trải dài theo đất nước có những ngư trường rộng lớn, hải sản quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, nhưng cho đến nay đời sống của đại bộ phận cư dân ven biển, những nơi có biển vẫn còn thấp cho thấy năng lực, khả năng tổ chức thực hiện khai thác tài nguyên biển của chúng ta yếu từ dưới nước cho đến... trên bờ! Chương trình đầu tư “tàu xa bờ” về đại thể so với nguồn lực đầu tư thì đã thất bại ở nhiều nơi. Hàng trăm chiếc tàu xa bờ phải nằm bờ, nhiều hợp tác xã đánh bắt hải sản phải giải thể phá sản và cùng với nó là hàng trăm tỉ đồng vốn đầu tư bị trôi theo “tàu xa bờ” tại mỗi địa phương có biển là hậu quả của cách làm kinh tế phong trào, duy ý chí

Về kinh tế du lịch biển, dù đã có rất nhiều quyết tâm, nhưng nhìn vào biểu đồ thu hoạch từ ngành kinh tế “rất nhọn” này, phải nói rằng hàng “núi tiền” ở các bãi biển vẫn chưa được đào lấy. Chỉ riêng ở khu vực miền Trung, hệ thống bờ biển, bãi biển gắn với các thắng cảnh, khu sinh thái, di sản văn hoá, di sản thiên nhiên thế giới dày đặc lẽ ra phải là miền đất béo bở để thu hút, thu hoạch làm giàu từ khách du lịch quốc tế, nhưng nhìn xuyên suốt toàn bộ hệ thống bãi tắm biển đẹp, nổi tiếng ở miền Trung hiện chỉ mới có một khu du lịch biển làm hài lòng du khách quốc tế tại Nhật Lệ - Quảng Bình, mới thấy rõ hệ quả của lối tư duy khai thác tài nguyên biển nghĩa là đánh bắt cá, mực...

Đáng lo ngại hơn là tình trạng khai thác khoáng sản thoả mãn tham vọng “ăn liền” ở các triền biển miền Trung đã - đang hàng ngày làm biến dạng, hoang hoá nhiều bãi biển đẹp có khả năng sinh ra tiền rất lớn từ du lịch. “Nữ hoàng bãi tắm” Cửa Tùng (Quảng Trị) đã bị xoá tên khỏi danh sách các bãi tắm đẹp, an toàn là “học phí” của một cung cách ứng xử thiếu học vấn đối với thiên nhiên, môi trường

Phải giàu lên từ biển! Xin đừng bao giờ coi đó là một khẩu hiệu. Để thực hiện khát vọng đó, quyết tâm không thôi chưa đủ, cần có một nguồn nhân lực đủ mạnh, có năng lực trí tuệ với những hiểu biết sâu rộng và khả năng làm chủ về biển, đảo quốc gia
 
Last edited:
Tàu cá giữ biển

- Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định về việc phê duyệt chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2020. Theo đó sẽ thành lập các đoàn tàu đánh cá công ích trên bốn ngư trường trọng điểm: vịnh Bắc bộ, biển Đông, Đông Nam bộ và Tây Nam bộ

Đây là một chủ trương đi đúng hướng, sớm tạo ra những tổ hợp tác, hợp tác xã khai thác thủy sản xa bờ, đồng thời xây dựng một thế trận quốc phòng an ninh nhân dân trên biển, vừa khai thác thủy sản vừa cùng với lực lượng hải quân, biên phòng, cảnh sát biển... bảo vệ toàn vẹn chủ quyền vùng biển đảo của đất nước. Một chiến lược giữ biển, sẵn sàng tham gia cứu hộ cứu nạn, tạo ra mối ngoại giao thân thiện với các nước láng giềng trên biển lâu dài mang tính bền vững nhất

Việc hình thành các đoàn tàu đánh cá khơi xa không phải là một đề án hay một mô hình gì mới. Cách đây không lâu, chúng ta cũng đã đầu tư khá nhiều tiền để phát triển “chiến lược phát triển nghề cá xa bờ”. Hàng ngàn tỉ đồng được đầu tư cho các tỉnh thành ven biển, thế nhưng hiện nay Nhà nước vẫn chưa thu hồi được bao nhiêu vốn. Phải khẳng định rằng dự án “chiến lược phát triển nghề cá xa bờ” không thành công

Vì sao một quyết định đúng nhưng lại có kết quả không như mong muốn? Đó là một bài học đau xót khi chúng ta đầu tư vốn dàn trải, không đúng đối tượng, không đúng ngành nghề, quản lý yếu... Cơ quan quản lý nhà nước về khai thác thủy sản lúc đó không dựa theo quy luật tự nhiên của biển cả bao la, đặc tính sinh học của các loại thủy sản di chuyển theo từng mùa vụ, từng dòng hải lưu... để có phương pháp đầu tư thích hợp

Dẫn đến cùng một ngư trường đánh bắt cá ngừ đại dương ở miền Trung, các dự án do tiền của Nhà nước đầu tư làm ăn thua lỗ, còn tàu do ngư dân Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa tự bỏ vốn ra thì làm ăn có hiệu quả. Họ đã mở rộng quy mô đội tàu câu cá ngừ đại dương lên cả nghìn chiếc và hình thành nên một thị trường từ khai thác đến xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Mỹ, châu Âu...

Mô hình các đoàn tàu đánh cá công ích trên bốn ngư trường trọng điểm lần này về cơ bản chỉ khác tên gọi, còn thực chất là những đội tàu đánh cá xa bờ. Rút kinh nghiệm ở “chiến lược phát triển nghề cá xa bờ” không thành công, các đoàn tàu đánh cá công ích muốn không bị thua lỗ như trước và tránh lâm vào cảnh “cha chung không ai khóc”, theo chúng tôi, cần có những biện pháp đồng bộ sau: Thứ nhất, xác định rõ ngành nghề khai thác để đầu tư tàu, thiết bị, ngư lưới cụ cho phù hợp. Thứ hai, con người khai thác trên các đội tàu phải giỏi từng ngành nghề tương ứng, đạt được trình độ chuyên nghiệp cao, khi đó mới theo kịp nhịp độ hoạt động của thiết bị máy móc trên tàu

Thứ ba, đầu tư đồng bộ, ngoài đầu tư những đội tàu trực tiếp khai thác dài ngày trên biển, phải đầu tư thêm đội tàu hậu cần nghề cá, có nhiệm vụ cung cấp nhiên liệu, lương thực, thực phẩm và chuyên chở sản phẩm đánh bắt được vào đất liền. Có như vậy tàu khai thác mới có điều kiện ở lại nhiều ngày trên biển, giảm chi phí nhiên liệu chạy ra chạy vào

Có thể đầu tư xây dựng kho chứa đông lạnh, nhà máy chế biến tại các đảo lớn, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Thứ tư, có một cơ quan chịu trách nhiệm tổng chỉ huy thống nhất tất cả đoàn tàu đánh cá công ích, từ khai thác trên biển đến tiêu thụ sản phẩm... Nếu chúng ta tổ chức được các khâu đồng bộ liên hoàn trên, mỗi sản phẩm thủy sản khai thác được sẽ có giá trị cao, đủ sức cạnh tranh với thị trường thế giới. Tổng lợi nhuận sẽ lớn gấp nhiều lần so với các tàu khai thác đơn chiếc, nhỏ lẻ, tự phát của ngư dân đang làm như hiện nay

Về mặt chính sách đối với những người hoạt động trên các đoàn tàu công ích này, cần được quy định chế độ đãi ngộ rõ ràng. Ví dụ, lợi nhuận thu được từ khai thác, chế biến, kinh doanh... nên trích phần trăm thích đáng cho những người lao động trực tiếp, theo đặc thù từng công việc và chuyên ngành của họ. Có thu nhập cao họ mới toàn tâm toàn ý bám tàu, bám biển và sẽ trở thành những công dân biển kiểu mẫu
 
Last edited:
Châu Âu sẽ “tư nhân hóa” đại dương

Uỷ ban châu Âu (EC) có kế hoạch cải tổ ngành đánh bắt cá của khối này bằng cách cấp hạn ngạch cho các tàu đánh cá trong giai đoạn ít nhất 15 năm

Bản kiến nghị cải tổ Chính sách đánh bắt chung (CFP) sẽ được đưa ra vào tháng 7 tới để những sửa đổi này có thể thực hiện từ năm 2013. Theo các nhà môi trường thì thực chất của việc sửa đổi này “gần như sẽ tư nhân hóa sở hữu đại dương”

Một trong những chính sách trọng tâm của Bản đề xuất cải tổ là sẽ xóa bỏ tình trạng thải loại, bằng cách áp dụng hệ thống hạn ngạch dựa trên số lượng cá được mang lên cảng là bao nhiêu, thay vì bao nhiêu con được đánh bắt

Cũng theo Bản đề xuất, các tàu đánh bắt sẽ ghi lại và mang lên bờ tất cả những gì họ đánh bắt được. Quy định này được áp dụng với một số loài như cá thu, cá trích và cá ngừ bắt đầu từ năm 2014. Quy định đối với cá tuyết, cá meluc và cá bơn sẽ được thực hiện từ năm tiếp theo, rồi tất cả các loài cá thương mại sẽ được luật này điều tiết từ năm 2016

Văn bản của EC không nói lệnh cấm thải loại có thể áp dụng theo cách nào để cho phép các ngư dân linh hoạt trong trường hợp đánh bắt được nhiều loại cá cùng lúc

“Nếu áp dụng luật cấm vứt bỏ từ năm 2015, đó sẽ là chính sách cùn nhất trong tất cả chính sách cùn. Không ngư dân nào có thể nói: Tôi sẽ đi đánh cá hôm nay và chỉ bắt cá efin. Đó là điều không thể”, Bertie Armstrong, giám đốc điều hành của Liên đoàn đánh cá Scotland, nói.
Tác động sâu rộng nhất của Bản đề xuất là chính sách bắt buộc hạn ngạch có thể chuyển nhượng áp dụng cho “tất cả tàu đánh cá dài 12m trở lên... và tất cả tàu đánh bắt dưới 12m có phụ tùng lai dắt”

Các thuyền trưởng sẽ được đảm bảo cấp một phần hạn ngạch trong hạn ngạch quốc gia trong giai đoạn ít nhất 15 năm. Hạn ngạch này có thể được trao đổi, và nếu được chính phủ đồng ý thì có thể mua bán với tàu cá ở nước khác

“Hai năm trước, EC đưa ra bản đánh giá về CFP nhưng bị chỉ trích nặng nề vì không thể quản lý nguồn cá hiệu quả. Chúng tôi cảm thấy bản đề xuất này cũng không giải quyết được thực trạng đó”, Markus Knigge ở nhóm hoạt động môi trường Pew, phát biểu

Chưa rõ chính sách này sẽ được thực hiện chính xác như thế nào, và các nhóm ngư dân đang tiến hành vận động hành lang để phản đối, đặc biệt ở những khu vực như Biển Bắc, nơi nhiều loài được đánh bắt thường bơi cùng nhau

Chính sách này đã được áp dụng trên quy mô nhỏ ở một số nước thuộc Liên minh châu Âu, như nước Anh, Iceland và New Zealand

CFP được thực hiện 28 năm qua với mục đích kiểm soát hạn ngạch khai thác ở mức bền vững, nhưng lâu nay vẫn bị chỉ trích là gây ra hiệu quả ngược lại

Có tới một nửa số lượng một lượng hải sản không đủ kích thước đang bị vứt đi sau khi đánh bắt được vì các tàu đánh cá vượt hạn ngạch cho phép
 
Last edited:
Kinh tế biển Việt Nam: Chưa tương xứng với tiềm năng

Hiện nay, lượng hàng hóa thông qua cảng biển tính trên đầu người của Việt Nam chỉ bằng 1/140 của Singapore, 1/7 của Malaysia và 1/5 của Thái Lan

“Quảng bá và xây dựng thương hiệu sản vật, sản phẩm biển Việt Nam thân thiện môi trường” là chủ đề của diễn đàn Thương hiệu biển Việt Nam lần thứ III do Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức, ngày 6-6

Tụt hậu khá xa

PGS-TSKH Nguyễn Văn Cư, Tổng Cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, nhận xét: “Sự phát triển của kinh tế biển Việt Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém; hệ thống cảng biển nhỏ bé, thiết bị khá lạc hậu”. Ông Cư đánh giá kinh tế biển Việt Nam không chỉ tụt hậu so với các nước lớn mà còn lép vế so với các nước trong khu vực. Hiện lượng hàng hóa thông qua cảng biển tính trên đầu người của Việt Nam chỉ bằng 1/140 của Singapore, 1/7 của Malaysia và 1/5 của Thái Lan

Trong việc phát triển kinh tế biển Việt Nam, du lịch biển có tiềm năng lớn. Tuy nhiên, ngành du lịch biển vẫn thiếu những sản phẩm đặc sắc có tính cạnh tranh cao; chưa có khu du lịch biển đạt đẳng cấp quốc tế. PGS-TS Phạm Trung Lương, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch (Tổng cục Du lịch), nhìn nhận: Du lịch biển Việt Nam thiếu những sản phẩm mang tính đặc thù để thu hút khách quốc tế. Nhiều tài nguyên du lịch biển đã không được khai thác hợp lý, thậm chí còn bị “biến dạng” bởi những ý tưởng thiếu căn cứ khoa học

Đến nay kinh tế biển Việt Nam đạt hơn 10 tỉ USD/năm, trong khi sản lượng kinh tế biển của thế giới ước đạt 1.300 tỉ USD/năm (dẫn đầu là Nhật với 468 tỉ USD/năm). Quy mô kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam đạt bình quân 47%-48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần biển” đạt 20%-22% tổng GDP cả nước, tập trung chủ yếu ở khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải và du lịch biển

Liên kết để xây dựng thương hiệu biển

Theo các đại biểu, để kinh tế biển phát triển mạnh, chúng ta phải sớm đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng. Cạnh đó, cần khẩn trương xây dựng quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ tài nguyên biển, hải đảo đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Đây là cơ sở để quy hoạch lại ngành kinh tế biển hợp lý nhằm khai thác và phát triển bền vững vùng biển quốc gia

Nhiều đại biểu lưu ý Việt Nam phải đầu tư xây dựng cảng biển một cách có trọng điểm thay vì tràn lan như hiện nay. “Cần phát triển đồng bộ giữa cảng biển với mạng lưới cơ sở hạ tầng sau cảng, đảm bảo sự kết nối liên hoàn giữa cảng biển với mạng lưới giao thông quốc gia và đầu mối logistic ở khu vực” - ông Phạm Hữu Tấn, Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV Cảng Cam Ranh, nói

Việc liên kết giữa các ngành nghề trong việc xây dựng một thương hiệu mang tầm vĩ mô cũng được nhiều đại biểu quan tâm. “Xây dựng thương hiệu biển nếu chỉ dừng lại ở hình ảnh và thương hiệu ngành, lĩnh vực sẽ không tạo nên sức mạnh tổng hợp. Vì vậy, các ngành nên cùng hỗ trợ, hợp tác hài hòa với nhau trong việc xây dựng và quảng bá thương hiệu biển” - Tổng Cục trưởng Nguyễn Văn Cư bày tỏ
 
Last edited:
Kinh tế biển Việt Nam: Cần mạnh mẽ và đột phá hơn

– Diễn đàn Kinh tế Biển Việt Nam lần thứ 2 (VMEF 2011) – một trong những sự kiện chính của Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam 2011, do Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) phối hợp với Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tổ chức đã diễn ra hôm nay 8/6 tại TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Cần nguồn nhân lực mạnh và hạ tầng kỹ thuật "cần thiết"

Với chủ đề “Động lực và thách thức cho sự phát triển của các khu kinh tế ven biển Việt Nam”, diễn đàn đã thu hút sự tham dự của gần 200 khách mời là lãnh đạo các bộ, ngành liên quan, các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ và Khánh Hòa; các chuyên gia, nhà nghiên cứu kinh tế và chính sách cùng đông đảo lãnh đạo doanh nghiệp trong nước và quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam

Theo Thứ trưởng thường trực Bộ TN&MT Nguyễn Văn Đức, thực tiễn triển khai chiến lược biển cũng như việc thực hiện các chương trình kinh tế biển của nước ta cho thấy vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc như: chưa tổ chức một cách khoa học và kiểm soát được được không gian vùng biển của mình; chưa tổ chức nghiên cứu và nắm được các quy luật và điều kiện tự nhiên, môi trường biển một cách có hệ thống cũng như chưa có khả năng dự báo các quy luật trên để phục vụ khai thác, phát triển biển

Mặt khác, “Chúng ta cũng chưa có được nguồn nhân lực mạnh và một hạ tầng kỹ thuật cần thiết, nhất là các thiết bị công nghệ hiện đại khảo sát nghiên cứu để phục vụ cho sự phát triển kinh tế biển. Bên cạnh đó, cuộc sống của phần lớn cư dân ven biển, những người trực tiếp tham gia vào việc khai thác tài nguyên biển còn gặp nhiều khó khăn, chịu nhiều rủi ro từ thiên tai, có nhiều bấp bênh”, Thứ trưởng Đức nói

Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Văn Đức, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập với thế giới bên ngoài, vì vậy đối với biển, chúng ta cần nghiên cứu và đưa ra một đường lối hợp tác hiệu quả với các quốc gia nhằm phục vụ cho việc khai thác các tiềm năng biển, phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc. Đây thực sự là những vấn đề rất quan trọng để các ngành, các cấp và cộng đồng phải chung tay vào cuộc mạnh mẽ hơn và mang tính đột phá hơn để thực hiện thành công chiến lược biển, sớm đưa Việt Nam trở thành quốc gia giàu vì biển, mạnh vì biển

Phó Giáo sư, tiến sĩ Bùi Tất Thắng – Phó Viện trưởng Viện chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), cho rằng để thực hiện mục tiêu trên, bên cạnh việc lựa chọn các lĩnh vực kinh tế biển có nhiều tiềm năng, thế mạnh để tập trung nguồn lực phát triển thì việc lựa chọn các hình thức tổ chức và địa bàn triển khai nhằm tạo mở không gian phát triển có ý nghĩa rất quyết định

Khu kinh tế ven biển – mô hình có tính đột phá

Nước ta nằm ở phía Tây biển Đông, có cả vùng biển rộng lớn gấp hơn 3 lần diện tích đất liền với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng và trữ lượng vào loại khá. Sự hiện diện của hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ và hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa đã tạo thế và lực cho đất nước trong xây dựng cụm dịch vụ hậu cần cho hoạt động biển xa, phát triển du lịch biển đảo và thế trận quốc phòng, an ninh. Bờ biển nước ta dài và dọc bờ biển có hơn 100 cảng biển, bến, 48 vũng, vịnh và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ ra biển. Điều này tạo thuận lợi cho việc giao lưu thương mại quốc tế qua đại dương

Hội nghị lần thư 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã đề ra nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, theo đó phải phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên vì biển; đồng thời bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế từ biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối với sự phát triển của cả nước

Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp 53-55% GDP, 55-56% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của nghị quyết, các bộ ngành liên quan và các tỉnh ven biển đã xây dựng chương trình hành động cụ thể để thực hiện những mục tiêu đề ra

Theo Phó Vụ trưởng Vụ quản lý các khu kinh tế (KKT) Bộ KH&ĐT Trần Duy Đông, kể từ khi KKT ven biển đầu tiên là KKT mở Chu Lai được thành lập vào năm 2003, tính đến cuối năm 2010 đã có 15 KKT được thành lập, gồm 2 KKT ở vùng Đồng bằng sông Hồng là Vân Đồn (Quảng Ninh) và Đình Vũ – Cát Hải (TP. Hải Phòng); 10 KKT ở vùng duyên hải miền Trung là Nghi Sơn (Thanh Hóa), Đông Nam Nghệ An (Nghệ An), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Hòn La (Quảng Bình), Chân Mây - Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế), Chu Lai (Quảng Nam), Dung Quất (Quảng Ngãi), Nhơn Hội (Bình Định), Nam Phú Yên (Phú Yên), Vân Phong (Khánh Hòa); 3 KKT ở miền Nam là đảo Phú Quốc và cụm đảo Nam An Thới (Kiên Giang), Định An (Trà Vinh), Năm Căn (Cà Mau). Tổng diện tích mặt đất và mặt nước biển của 15 KKT này là 662.249 ha

Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bổ sung thêm 3 KKT vào quy hoạch phát triển các KKT ven biển Việt Nam đến 2020 là KKT Đông Nam Quảng Trị, KKT ven biển Thái Bình, KKT Ninh Cơ (Nam Định) nâng tổng số KKT trong quy hoạch phát triển KKT cả nước đến năm 2020 theo Quyết định 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2008 của Thủ tướng Chính phủ lên con số18, với tổng diện tích mặt đất và mặt nước biển là 721.782 ha

Kỳ vọng lớn

Mặc dù thời gian triển khai chưa lâu và chủ yếu đang trong quá trình đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhưng các KKT ven biển đã bước đầu đạt được những kết quả khả quan, mở ra tiềm năng phát triển, cơ hội thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật sản xuất theo hướng hiện đại hóa, sản xuất lớn.. Các khu kinh tế đã từng bước chứng tỏ được vai trò trong việc đóng góp vào phát triển kinh tế, công nghiệp, dịch vụ

Theo mục tiêu phát triển KKT ven biển Việt Nam, đến năm 2020 các KKT thu hút khoảng 1.500 – 2.000 dự án, trong đó khoảng 60% là dự án đầu tư nước ngoài và 40% dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 70-80 tỷ USD và 320.000 – 350.000 tỷ đồng. Các KKT ven biển đóng góp vào tổng GDP của cả nước khoảng 15-20% và tạo ra việc làm phi nông nghiệp cho khoảng 1,3-1,5 triệu người

Ông Trần Duy Đông cho rằng, để các KKT hoạt động đạt kết quả như mục tiêu đề ra, một trong các giải pháp là tập trung nguồn lực xây dựng các tuyến giao thông ven biển nối liền các KKT làm cơ sở tạo mối liên kết, tương hỗ lẫn nhau giữa các KKT ven biển, làm tiền đề hình thành trục động lực phát triển ven biển. Trong đó có sự phân công chặt chẽ trong phát triển ngành, lĩnh vực giữa các KKT. Bên cạnh đó cũng chú trọng xây dựng các tuyến giao thông nối các KKT ven biển với các trung tâm phát triển kinh tế trong cả nước để phát huy tính lan tỏa của các KKT…

VMEF 2011 thực sự là diễn đàn để các đại biểu trao đổi về chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam; tạo cơ hội cho các nhà đầu tư, chuyên gia và giới truyền thông trong và ngoài nước hiểu rõ tiềm năng, triển vọng tài nguyên biển, các khu kinh tế ven biển và phát triển kinh tế biển của Việt Nam nói chung, các tỉnh ven biển Trung và Nam Trung Bộ, trong đó có Khánh Hòa nói riêng; xúc tiến các dự án đầu tư vào các khu kinh tế ven biển miền Trung, trong đó có khu kinh tế Vân Phong của Khánh Hòa và các dự án đầu tư vào địa bàn Khánh Hòa

Kể từ năm 2011, VMEF sẽ là một trong các chương trình chính của Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, được Chính phủ chỉ đạo tổ chức thường niên và do Bộ TN&MT chủ trì
 
Last edited:
Thách thức từ tiềm năng kinh tế biển

- Để trở thành “quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển” như Chiến lược biển đến năm 2020 đặt ra thì Nhà nước phải có chính sách cụ thể, rõ ràng chứ không thể chỉ có ý chí chính trị là đủ

Của... biển Đông

Theo Tổng cục Biển và hải đảo, Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật biển phong phú (11.000 loài, 20 kiểu hệ sinh thái... nguồn lợi thủy sản khai thác bền vững khoảng 2,3 triệu tấn/năm); đa dạng về tài nguyên phi sinh vật (đã biết được khoảng 35 loại hình khoáng sản thuộc các nhóm: nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý và bán quý, khoáng sản lỏng)

Gần đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hiện một số mỏ cát dưới đáy biển và biết đến một loại tài nguyên mới của thế giới có giá trị là băng cháy (khí hydrate methane hình thành trong điều kiện áp suất cao và nhiệt độ rất thấp)

Theo ông Nguyễn Chu Hồi, Tổng cục phó Tổng cục Biển và hải đảo, băng cháy có thể sẽ là nguồn năng lượng thay thế cho các dạng năng lượng truyền thống đang dần cạn kiệt. Từ năm 2000, Trung Quốc bắt đầu điều tra tiềm năng băng cháy vùng sườn phía Bắc biển Đông (một trong bốn khu vực của thế giới có trữ lượng băng cháy lớn). Hiện nay, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đang điều phối chương trình điều tra, nghiên cứu triển vọng băng cháy ở vùng biển Việt Nam

Ngoài ra, biển Việt Nam còn có tiềm năng về gió, thủy triều, nước... và đặc biệt là hàng hải, cảng biển và du lịch. Nhưng quan trọng hơn hết là Việt Nam có một vị trí địa kinh tế, địa chính trị đặt biệt trong khu vực - nằm trên đường giao thương quốc tế, với một không gian biển rộng lớn, gấp ba lần diện tích đất liền, nằm ngay ở ngã tư mặt tiền biển Đông. Vì vậy, ông Trần Du Lịch, đại biểu Quốc hội, nhận định: “Đây mới thật sự là tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế biển của Việt Nam hướng ra thế giới”

Và cũng chính vì lợi thế quan trọng đó nên biển Đông thường xảy ra những cuộc tranh chấp kéo dài liên quan đến chủ quyền trên biển. Thật vậy, trong quá khứ, nơi đây đã ghi dấu những trang sử hùng tráng về các cuộc đấu tranh giữ nước và lịch sử dựng nước của dân tộc Việt Nam

Làm kinh tế biển theo tư duy nông nghiệp

Xét trong bình diện chung, đánh giá nước ta có “biển bạc” quả là không quá, nhưng khai thác “biển bạc” đó như thế nào cho hiệu quả, cho bền vững là vấn đề lớn. Theo TS. Nguyễn Tác An, Chủ tịch Ủy ban quốc gia Chương trình hải dương học liên chính phủ, tiềm năng về biển của Việt Nam lớn nhưng lâu nay chúng ta khai thác theo tư duy nông nghiệp - chủ yếu tập trung vào đánh bắt hải sản ven bờ

“Chúng ta mới khai thác giá trị vật chất biển ở mức độ đơn giản trong khi thế giới đã khai thác giá trị chức năng biển; chúng ta câu cá mú bán lấy tiền vài trăm ngàn đồng mỗi ký, nhưng lại không biết rằng, nếu để con cá mú ấy với chức năng đa dạng sinh học thì giá trị của nó có thể là hàng chục triệu đồng”, ông Nguyễn Tác An nói. Trong khi các lĩnh vực khác như hàng hải và du lịch biển việc khai thác cũng chẳng khá hơn

Về không gian kinh tế biển, chúng ta đã lập ra hàng loạt khu kinh tế nhưng lại thiếu quy hoạch khoa học. TS. Võ Đại Lược, Tổng giám đốc Trung tâm Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, cho rằng các khu kinh tế này được lập theo ý chí chủ quan, ý chí chính trị của các địa phương, thiếu sự tham khảo ý kiến của các nhà đầu tư cũng như các công ty tư vấn và quy hoạch có uy tín nên hầu hết các khu kinh tế này “không khác các khu công nghiệp là bao”

Theo ông Trần Duy Đông, Phó vụ trưởng Vụ Quản lý các khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện cả nước có 15 khu kinh tế, đang xem xét cấp phép tiếp cho ba khu và có thể sau đó là hai khu nữa... Thế nhưng, theo TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, nếu không có sự thay đổi tư duy mang tầm chiến lược và đột phá về thể chế kinh tế thì các khu kinh tế hướng biển sẽ khó mà cất cánh, thậm chí việc hình thành ồ ạt sẽ dẫn đến những hệ lụy khác

Thật vậy, tư duy nông nghiệp, tư duy địa phương cục bộ đang thể hiện trong quá trình phát triển kinh tế biển trong thời gian qua. Hiện tượng tỉnh nào cũng muốn có cảng biển, tỉnh nào cũng muốn có khu kinh tế hướng biển... chạy đua xây dựng cảng (hiện cả nước có gần 100 cảng), thành lập khu kinh tế mở với kiểu tư duy “cơ cấu kinh tế tỉnh” đã làm phân tán nguồn lực đầu tư. Nói như ông Trần Du Lịch là “hút nguồn vốn đầu tư rất lớn nhưng hiệu quả kinh tế mang lại là không nhiều”

Để trả lời cho câu hỏi, tại sao Việt Nam có tiềm năng phát triển kinh tế biển lớn nhưng chúng ta vẫn là nước nghèo, ông Võ Đại Lược cho rằng lý do nằm ở chỗ “con người”. Vị trí địa kinh tế, địa chính trị của Việt Nam ở biển Đông giống như căn nhà mặt tiền ở đường Đồng Khởi. Lẽ ra với vị trí như thế người chủ phải kinh doanh những loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp... đằng này lại mở tiệm bán trà đá thì làm sao thoát nghèo được, ông Lược ví von

Thánh thức tiềm năng biển

Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 xác định dầu khí, nghề cá, hàng hải và du lịch là những ngành kinh tế biển then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế biển. Kinh tế biển sẽ tiếp tục là lợi thế so sánh và là hướng ưu tiên phát triển mạnh trong thời gian tới của Chính phủ. Song, theo các chuyên gia tham dự Diễn đàn kinh tế biển Việt Nam 2011, để trở thành một nước mạnh về biển, Việt Nam phải thay đổi cách nhìn về biển - nhận diện rõ thách thức từ tiềm năng biển

Tổ chức lại không gian kinh tế biển trên cơ sở gắn kết hài hòa các mảng không gian kinh tế duyên hải, kinh tế đảo, kinh tế biển và đại dương là cần thiết. Nhưng để thực hiện được những điều như mong muốn thì phải vượt qua hàng núi thách thức. Đó là khai thác biển theo kiểu tự phát trong khoảng thời gian dài (chú trọng đến sản lượng, số lượng...) khiến môi trường biển suy giảm, nguồn lợi thủy sản giảm sút, không gian phát triển rối bời...

Thật vậy, tài nguyên biển thuộc dạng tài nguyên chia sẻ, chứa đựng yếu tố không gian, là tiền đề phát triển đa ngành. Song, việc quản lý biển, đảo đến nay vẫn theo cách tiếp cận mở kiểu “điền tư, ngư chung” (tức ruộng đất thì có chủ rõ ràng còn ngư trường biển thì không xác định được chủ) và chủ yếu quản lý theo ngành. Các phương thức/chính sách quản lý tài nguyên theo cách tiếp cận mới chậm được áp dụng, nếu đã áp dụng cũng chưa có khả năng nhân rộng

Đặt biệt, khu vực biển Đông đang có tranh chấp gay gắt, nên việc hợp tác và hội nhập quốc tế để phát triển kinh tế ở khu vực này còn gặp không ít khó khăn. Việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, những vi phạm trong quá trình sử dụng, khai thác tài nguyên biển chưa có các quy định cụ thể mang tính pháp quy và còn nhiều bất cập. Công tác kiểm tra, kiểm soát, cấp và thu hồi giấy phép sử dụng, khai thác tài nguyên biển... chưa được triển khai để thực hiện chủ trương “kinh tế hóa” trong lĩnh vực tài nguyên biển

Các giải pháp đề xuất

Trước khi khai mạc Diễn đàn Kinh tế biển Việt Nam 2011, Ban tổ chức (Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam và Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài) đã tổ chức cuộc tọa đàm giữa các chuyên gia cao cấp để bàn về các giải pháp phát triển kinh tế biển Việt Nam. Tại đây, vấn đề nguồn nhân lực cho việc phát triển kinh tế biển quá yếu kém đã được báo động. Các cơ sở đào tạo vốn đã ít, sau khi ngành thủy sản giao về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nay càng hiếm hơn

Nhóm chuyên gia dự tọa đàm khuyến nghị ngoài việc đào tạo nguồn nhân lực, phát triển nền khoa học công nghệ biển tiên tiến, Việt Nam cần có những quyết sách chiến lược và giải pháp đồng bộ để khẳng định và khai thác hiệu quả tiềm năng biển; kinh tế biển phải đóng vai trò quyết định đối với tương lai của dân tộc Việt - không gian sinh tồn, không gian phát triển

Các chuyên gia cũng thống nhất ý kiến phải cơ cấu lại kinh tế biển từ khâu tổ chức lãnh thổ phát triển kinh tế biển (duyên hải, biển, đảo, đại dương) trong xu thế “lấy đại dương nuôi đất liền; đồng thời kiến nghị thành lập Bộ Kinh tế biển để quản lý thống nhất biển đảo và ven biển. Trong đó chú trọng ba vấn đề cơ bản là thông tin dữ liệu, nguồn nhân lực và chính sách kinh tế biển

Ngoài ra, phải chú trọng hiệu quả kinh tế chung tính trên một đơn vị biển gắn với việc xây dựng “Thương hiệu biển địa phương và quốc gia”. Áp dụng các tiêu chuẩn về chất lượng môi trường biển và tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng biển và hải đảo (dựa theo tính bền vững). Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành kiểm soát biển, đảo (các địa phương, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư...), mạng lưới tuyên truyền biển đảo (các hội, các tổ chức phi chính phủ trong nước, quốc tế, các viện, trường)

Khẩn trương triển khai các quy hoạch sử dụng biển và hải đảo ở địa phương ở cấp độ khác nhau đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 có tính đến các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng. Trên cơ sở đó phân bổ lại nguồn lực và điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, địa phương nhằm tiến tới chấm dứt việc khai thác tài nguyên biển, đảo và vùng ven biển một cách tự phát, thiếu quy hoạch, góp phần giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích trong khai thác, sử dụng
 
Last edited:
Top