What's new
Vietnam - Điện Biên Phủ Kinh Tế

This is a sample guest message. Register a free account today to become a member! Once signed in, you'll be able to participate on this site by adding your own topics and posts, as well as connect with other members through your own private inbox!

Vietnam ThinkTank.vn

Amazon sử dụng "biệt đội" 150 tiến sĩ kinh tế
- Tập đoàn thương mại điện tử Amazon đang sử dụng hơn 150 tiến sĩ kinh tế, nhiều hơn bất cứ công ty công nghệ nào khác ở Mỹ, để tìm ra các giải pháp tối ưu trong hoạt động kinh doanh từ việc định giá bán hàng cho đến tìm kiếm các địa điểm đặt nhà kho, nhà sách, theo hãng tin CNN

Nhiều quyết định định giá bán của Amazon, chẳng hạn giá bán của loa thông minh Echo Dot, được đưa ra dựa vào kết quả phân tích dữ liệu của các nhà kinh tế ở Amazon


Vai trò khác biệt của “biệt đội” tiến sĩ kinh tế Amazon


Amazon đang là thỏi nam châm lớn thu hút đội ngũ tiến sĩ kinh tế tài năng nhưng số lượng còn tương đối nhỏ ở Mỹ với khoảng 1.000 người được cấp bằng mỗi năm
f3225_anh_2.jpg

Trong những năm qua, Amazon đã tuyển dụng hơn 150 nhà kinh tế có học vị tiến sĩ và trở thành nơi sử dụng tiến sĩ nhiều nhất chỉ đứng sau các tổ chức như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ

Amazon là công ty duy nhất đặt một gian tuyển dụng tại hội nghị hàng năm của Hiệp hội Kinh tế học Mỹ (AEA) hồi tháng 1-2019

Không giống như những nhà kinh tế trong các trường đại học hay cơ quan chính phủ, công việc của nhóm tiến sĩ kinh tế ở Amazon gần như bí mật hoàn toàn vì Amazon bắt buộc họ phải ký thỏa thuận không tiết lộ thông tin công việc. Amazon cũng không cho phép bất kỳ nhà kinh tế nào trả lời phỏng vấn báo chí hoặc trả lời các câu hỏi về công việc của họ

Song họ thực sự đang đóng góp vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng thần kỳ của mảng thương mại điện tử của Amazon

Các tiến sĩ kinh tế của Amazon sử dụng các thuật toán học máy để xây dựng những kịch bản về vị trí đặt văn phòng, nhà kho, nhà sách..., xác định các mức bán giá hàng rẻ nhất nhưng vẫn có lãi, quyết định chính xác những gì khách hàng quan tâm và những quảng cáo nào đang có hiệu quả

“Hãy tưởng tượng bạn là một nhà bán lẻ lớn cần mở nhiều địa điểm bán hàng. Chúng ta thường chỉ có thể dự báo chính xác ở mức 30-40% về hiệu quả của một địa điểm bán lẻ. Nhưng với các năng lực học máy và trí tuệ nhân tạo, chúng ta có thể đạt mức chính xác 90% trong việc dự báo hoạt động kinh doanh ở một địa điểm bán lẻ cụ thể”, Martin Fleming, nhà kinh tế trưởng của Tập đoàn IBM, nói

“Biệt đội” tiến sĩ kinh tế của Amazon là tài sản lớn mà các công ty nhỏ hơn không phải lúc nào cũng đủ sức chi trả, cho phép Amazon ngày càng bứt xa trong cuộc cạnh tranh với các đối thủ

Các công ty công nghệ khác đang sử dụng hiệu quả các nhà kinh tế bao gồm Uber với khoảng 30 nhà kinh tế

Phát biểu tại hội nghị hàng năm của AEA ở Atlanta, bang Georgia hồi tháng 1, Jonathan Hall, nhà kinh tế trưởng Uber, nói: “Amazon là công ty duy nhất tuyển dụng nhiều nhà kinh tế như vậy và tận dụng họ thành công”

Jonathan Hall giải thích rằng trong khi nhiều công ty thuê các nhà kinh tế để làm người phát ngôn hoặc tư vấn chiến lược doanh nghiệp tổng thể thì Amazon và Uber tìm cách sử dụng họ như là các nhà tư vấn quan trọng trong gần như bất cứ quyết định kinh doanh nào

Amazon cũng tái định hình lĩnh vực kinh tế học truyền thống. Tom Beers, Giám đốc Hiệp hội Kinh tế học kinh doanh quốc gia Mỹ, nhận xét: “Những chuyên gia kinh tế ở Amazon và Uber không làm các công việc giống như vai trò của nhà kinh tế trưởng truyền thống. Họ đang làm những điều hoàn toàn khác biệt”

Vai trò quan trọng nhất của họ có lẽ là phân tích dữ liệu để rút ra những mối quan hệ nhân quả trong thương mại điện tử bằng cách kết hợp các kiến thức kinh tế của họ với các công cụ do các kỹ sư phần mềm tạo ra

Tham gia tư vấn mọi hoạt động trong công ty

Dữ liệu thu thập được từ mạng lưới các trung tâm hoàn thiện đơn hàng của Amazon giúp các nhà kinh tế của Amazon dự báo được lượng hàng dự trữ cần thiết, cách để vận chuyển hàng hóa hiệu quả...

Ở các công ty khác, các nhà kinh tế thường được tập hợp lại trong một nhóm nhỏ nhưng tại Amazon, họ được rải vào nhiều nhóm khác nhau khắp công ty. Trong một thông tin tuyển dụng, Amazon mô tả nhiệm vụ của các nhà kinh tế là hỗ trợ xây dựng các mô hình xác định rủi ro đối với hoạt động cho vay với các bên bán hàng thứ ba trên nền tảng Amazon; tư vấn về thiết kế sản phẩm; xác định khách hàng mục tiêu cho mảng kinh doanh dịch vụ điện toán đám mây; dự báo công suất máy chủ cần thiết cho trang web bán hàng của Amazon
d50e6_anh_1.jpg

Trong số 46 công việc dành cho các nhà kinh tế đăng trên trang tuyển dụng của Amazon, có những vị trí yêu cầu hỗ trợ tinh chỉnh mức định giá bán hàng, tìm cách hiệu quả nhất để di chuyển các đoàn xe tải chở hàng đi qua mạng lưới phân phối khổng lồ của Amazon, xác định đặc tính của những nhân tài xuất sắc để tuyển dụng hiệu quả hơn

Xây dựng được một đội ngũ 150 nhà kinh tế có học vị tiến sĩ không phải là điều dễ dàng vì đối với các tiến sĩ kinh tế, chọn một công việc ở khu vực tư nhân là một bước đi thụt lùi vì họ không thể kiếm được một công việc ở các trường đại học. Làm việc ở các công ty nhân, họ hiếm khi có cơ hội công bố những công trình nghiên cứu trên các tạp chí nghiên cứu kinh tế. Song Amazon đang trả lương bổng rất tốt. Những nhà kinh tế cấp thấp ở Amazon có thể được trả lương đến 160.000 đô la mỗi năm cũng như được hưởng quyền mua cổ phiếu Amazon với giá ưu đãi

Ngoài ra, nhiều nhà kinh tế đầu quân cho Amazon vì họ cảm nhận được tác động và giá trị mà họ tạo ra cho công ty. Tiến sĩ kinh tế Daryl Fairweather, cựu nhân viên của Amazon và nay là nhà kinh tế trưởng ở Công ty giao dịch bất động sản Redfin, cho hay bà bị thu hút đến Amazon làm việc vì nhận thấy có nhiều cơ hội nghiên cứu và khả năng tạo tác động đến quy trình ra quyết định của công ty này

“Đó là điều thực sự thú vị về mặt cá nhân. Công việc mà tôi làm tạo ra giá trị rõ ràng, có thể nhìn thấy ngay lập tức, chứ không phải là ở dạng giả thiết. Khi bạn công bố một kết quả nghiên cứu trên một tạp chí khoa học, rất khó để nhận biết các nhà làm luật đang ra các quyết định dựa vào kết quả đó. Khi bạn làm việc trong một công ty, rõ ràng, bạn có thể thay đổi lối suy nghĩ của mọi người”, tiến sĩ Fairweather nói

Chánh Tài
 
Last edited:
Samsung và "ẩn số" động lực tăng trưởng đối với nền kinh tế
- Trong một báo cáo về tình hình sản xuất công nghiệp, thương mại 9 tháng đầu năm 2019, Bộ Công Thương đã dùng những con số để thể hiện sự ảnh hưởng của Samsung đối với nền kinh tế, bao gồm từ sản xuất công nghiệp đến xuất khẩu và nhận định rằng, động lực tăng trưởng từ phía Samsung còn là một ẩn số

Vai trò "bá chủ" công nghiệp chế biến ở Việt Nam

Động lực tăng trưởng từ phía Samsung đối với nền kinh tế vẫn còn là một "ẩn số", hay nói khác đi, cơ quan quản lý rất khó dự đoán được, do "đầu tàu” xuất khẩu của Samsung trồi sụt thế nào thì sẽ ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam như thế. Sự trồi sụt này là do ”doanh số bán hàng từ Samsung toàn cầu vẫn chưa có dấu hiệu tăng trưởng tích cực trở lại”, như báo cáo nhận định

4656d_samsung_galaxy_s10.jpg

Động lực tăng trưởng từ phía Samsung đối với nền kinh tế vẫn còn là một "ẩn số". Ảnh minh họa là một buổi cho ra mắt điệnt hoại thông minh mới của hãng tại Việt Nam

Bộ Công Thương dẫn báo cáo kinh tế toàn cầu quí 3-2019 của Ngân hàng Standard Chartered cho biết, Việt Nam sẽ tiếp tục là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á (ASEAN) trong ngắn hạn, với mức tăng trưởng dự kiến đạt 6,9% trong năm 2019, trong đó lĩnh vực sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đóng vai trò là động lực tăng trưởng chính

Trong 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 194,3 tỉ đô la Mỹ, tăng 8,2% so với cùng kỳ. Mức tăng trưởng này tuy tăng dần đều qua từng tháng nhưng vẫn thấp hơn so với cùng kỳ năm 2017-2018 (lần lượt là 20,6% và 15,8%), với một phần nguyên nhân là do ảnh hưởng của chiến tranh thương mại toàn cầu diễn biến quá phức tạp

Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục đóng vai trò đóng góp chính vào tăng trưởng xuất khẩu chung, ước đạt 163,66 tỉ đô la (tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước). Đáng chú ý là kim ngạch của nhóm này chiếm 84,23% tổng kim ngạch xuất khẩu, cao hơn 2017 và 2018

Đây là những tín hiệu lẽ ra đáng mừng song một số ngành vốn tạo động lực tăng trưởng xuất khẩu như sản phẩm điện tử, máy vi tính, sản phẩm quang học, đặc biệt là điện thoại di động, lại không duy trì được tốc độ tăng trưởng ấn tượng như giai đoạn trước. Trong khi động lực tăng trưởng từ Samsung - cánh chim đầu đàn trong khối FDI - lại đang là một ẩn số đối với cơ quan quản lý, do doanh số bán hàng toàn cầu của Samsung sụt giảm và chưa tăng trưởng trở lại

Thông tin chính thức về tình hình tài chính được Samsung Việt Nam công bố trên trang web của mình, dẫn nguồn từ Báo cáo tài chính của tập đoàn mẹ tại Hàn Quốc, cho biết, doanh thu 3 quý đầu năm 2019 đạt 51-53 tỉ đô la và lợi nhuận hoạt động đạt 6,4-6,6 tỉ đô la. Không có Báo cáo tài chính riêng cho thị trường Việt Nam, nơi đặt cứ điểm sản xuất lớn nhất của Samsung toàn cầu, với quy mô lớn hơn các nhà máy tại Trung Quốc, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất điện thoại di động thông minh

Hồi cuối năm 2018, tại một cuộc gặp với Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Tổng giám đốc Samsung Việt Nam Shim Wohwan cho biết, kim ngạch xuất khẩu của Samsung năm 2018 ước đạt 60 tỉ đô la, chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam

Tuy nhiên, theo ước tính của các nhà phân tích tài chính quốc tế thì con số này trong thực tế có thể lớn hơn. Như năm 2018, doanh thu của Samsung Việt nam vào khoảng 65 tỉ đô la, tương đương 28% GDP của Việt Nam, chiếm khoảng 30% doanh thu của Samsung trên toàn cầu. Do đó, việc tăng hay giảm lợi nhuận của Samsung tại Việt Nam ảnh hưởng rất lớn đến tập đoàn Samsung nói riêng và hoạt động kinh tế, xuất khẩu của Việt Nam nói chung. Việc sụt giảm lợi nhuận của Samsung năm 2018 so với các năm trước đó tại các cơ sở sản xuất ở Bắc Ninh và TPHCM còn ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng thu ngân sách của các địa phương này

Còn theo Báo cáo của chuyên gia kinh tế Marc Djandji, Trưởng bộ phận khách hàng doanh nghiệp công ty chứng khoán Rồng Việt, vào cuối 2018 thì ngành sản xuất điện thoại di động và công nghiệp điện tử là phần rất quan trọng trong lĩnh vực chế biến và sản xuất, chiếm 18,8% GDP của Việt Nam và thường hàng năm có tốc độ tăng trưởng trên 10%. Chỉ cần nhìn vào quí 1-2017, khi Samsung Galaxy Note 7 gặp sự cố, sụt giảm doanh số bán hàng thì tăng trưởng GDP quý đó chỉ đạt 5,1%. Báo cáo kinh tế vĩ mô cũng tại thời điểm quí 1-2017 của Bộ Công Thương và Chính phủ cũng phải thừa nhận điều này

Note 10 và sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam

Sự tác động của Samsung đối với kinh tế Việt Nam hiện tại như thế nào? Vào quí đầu năm nay, khi Samsung Galaxy Note 10 chưa chính thức được bán ra thị trường thì tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu của nhóm hàng linh kiện, điện tử bị ảnh hưởng mạnh. Ngành sản xuất các sản phẩm này chỉ bắt đầu phục hồi từ giữa quí 2 và đang lấy lại đà tăng trưởng. Tính riêng trong tháng 8 và tháng 9, tăng trưởng IPP của ngành đạt 20,1% và 14,6% so với tháng trước, báo hiệu dấu hiệu phục hồi dần sau khi liên tục tăng trưởng âm so với cùng kỳ của năm trước trong 6 tháng đầu năm

"Nguyên nhân chủ yếu là do hãng điện thoại Samsung cho ra mắt dòng sản phẩm điện thoại cao cấp Galaxy Note 10 và đẩy mạnh để xuất khẩu”, Bộ Công Thương nhận định

Tính riêng 9 tháng đầu năm, 5 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam đạt trên 10 tỉ đô la đều thuộc về nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo thì xuất khẩu điện thoại, mà chủ yếu là Samsung đạt 38,6 tỉ đô la, chiếm 23,5% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này. Sự tăng trưởng mức thấp của nhóm ngành điện thoại, linh kiện kéo theo tăng trưởng xuất khẩu chung thấp hơn cùng kỳ những năm trước. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực khác, do đó, có tăng trưởng cao cũng không bù đắp được khoảng trống này

Việc ngày càng ít phụ thuộc hơn vào tình hình “sức khỏe” của khối doanh nghiệp FDI, nhất là khối doanh nghiệp FDI lớn để thoát ra khỏi sự “chi phối” rất mạnh của khối này đến nền sản xuất, xuất khẩu và rộng ra cả kinh tế vĩ mô, tài chính là mong muốn của Chính phủ, Tuy nhiên, với một thực tế có ảnh hưởng lớn như trường hợp Samsung đối với hoạt động xuất khẩu kể trên, hay Thaibev với Sabeco và việc thay đổi dòng vốn nước ngoài…thì khả năng cân bằng giữa tiềm lực của doanh nghiệp nội với doanh nghiệp ngoại trong nhiều năm nữa vẫn là ẩn số

Lan Nhi
 
2020: Một thế giới phân ly
Hàng thập niên qua, chính phủ các nước trên thế giới đã vận hành với suy nghĩ rằng toàn cầu hóa là một thế lực không thể nào ngăn cản nổi. Vì thế, cho dù có bất đồng về hệ tư tưởng, các quốc gia với nhiều sự khác biệt như Mỹ và Trung Quốc, Nga và Anh vẫn duy trì các chính sách tương tự, tạo điều kiện cho giao thương toàn cầu mở rộng và dòng tiền đầu tư chảy vào. Nhưng với sự đối đầu gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc, có thể khơi mào cho một cuộc bùng nổ chiến tranh thương mại toàn cầu, đã đảo ngược lại quy trình này

Xu hướng thời thượng hiện nay không còn là “toàn cầu hóa” (globalisation) mà là “phân ly” (decoupling), khi vì các lý do mang tính chiến lược và kinh tế, chính phủ các nước đang tìm cách giảm sự phụ thuộc vào một số thị trường nước ngoài và công nghệ. Xu hướng này đang được dẫn dắt bởi chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump. Mục tiêu thấy rõ của các biện pháp trừng phạt thương mại mà Mỹ áp lên Trung Quốc là nhằm khuyến khích một số hoạt động sản xuất công nghiệp và chuỗi cung ứng quay trở về cố thổ. Mỹ cũng thẳng tay với các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu công nghệ mà được xem là mối đe dọa an ninh, khi cấm công ty viễn thông Trung Quốc Huawei mua chip và linh kiện từ Mỹ

“Có thể thấy rõ mối quan hệ Mỹ - Trung đang trong một cuộc chuyển biến quan trọng, chứ không chỉ là một sự sa sút trong mối quan hệ giữa 2 nước”, James McGregor, Chủ tịch khu vực Trung Quốc đại lục tại APCO Worldwide, nhận định. Ông cho biết thêm: “Doanh nghiệp từng là hòn đá tảng quan trọng trong mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Cả 2 nước đã bất đồng về nhiều vấn đề và các hệ thống cũng có nhiều điểm không tương thích, nhưng mối quan hệ kinh doanh và thương mại đã hàn gắn hai nước với nhau. Giờ mối quan hệ kinh doanh và thương mại lại chính là nguyên nhân dẫn đến xung đột khi cả 2 quốc gia đang tranh giành những công nghệ quan trọng nhất của tương lai”

Xu hướng phân ly trên mặt trận chủ chốt công nghệ cũng ngày càng lan sang lĩnh vực nhân sự, khi các nhà nghiên cứu Trung Quốc gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm tại Mỹ. Người Mỹ thì cho rằng thực tế chính Trung Quốc đã khởi động quy trình phân ly này rất sớm, từ cách đây 1 thập niên khi nước này bắt đầu ngăn các công ty công nghệ Mỹ như Facebook và Google tiếp cận thị trường tiêu dùng Trung Quốc

Nhưng các bước đi gần đây của Mỹ đã buộc Trung Quốc phải đi xa hơn trên con đường tự lực cánh sinh. Bằng chứng là Huawei và các công ty công nghiệp và công nghệ khác của Trung Quốc đang gia tăng tìm kiếm nguồn cung cấp chip và linh kiện ở ngay thị trường nội địa

Quá trình phân ly sẽ rất đau đớn cho một số công ty hàng đầu thế giới. Có thể thấy, Trung Quốc hiện là thị trường lớn thứ 2 của Apple trong khi sản phẩm Apple phần lớn được sản xuất tại Trung Quốc. Còn Huawei, đối thủ Trung Quốc của Apple thì lại bành trướng rất nhanh tại các thị trường phương Tây. Huawei cũng đã sử dụng hệ điều hành Android của Google trong thiết bị di động của mình và giờ sẽ phải tìm cách phát triển các ứng dụng và hệ điều hành di động của riêng họ

Mỹ ngày càng lo ngại về hoạt động gián điệp và phá hoại, khi các chuyên gia an ninh chỉ ra rủi ro phần mềm độc hại (malware) có thể được cài trong các sản phẩm công nghệ nhập khẩu, có khả năng phá hoại hạ tầng quan trọng. Lấy cắp dữ liệu trên nền tảng đám mây cũng là một mối lo ngại khác, buộc nhà làm chính sách các nước để mắt nhiều hơn đến vị trí đặt những cơ sở, trung tâm lưu trữ dữ liệu. Trong khi đó, Trung Quốc, Nga và các nước khác cũng dè chừng, đặc biệt kể từ tiết lộ của Edward Snowden về khả năng Mỹ tiếp cận thông tin được lưu trữ bởi các tập đoàn công nghệ Mỹ

Đáng chú ý là thời gian gần đây, Ủy ban Đầu tư nước ngoài tại Mỹ (CFIUS), cơ quan chuyên trách săm soi các khoản đầu tư nước ngoài vào nước này, đã cực kỳ bận rộn. Vào tháng 3, CFIUS đã buộc các chủ sở hữu Trung Quốc phải chuyển giao quyền kiểm soát tại Grindr, một ứng dụng hẹn hò dành cho người đồng tính, do rủi ro an ninh

Giống như tại Mỹ, các nước châu Âu ngày càng lo ngại về một số khoản đầu tư của Trung Quốc. Thậm chí, đã có nhiều đề xuất rằng châu Âu nên thành lập một cơ quan chuyên trách giống như CFIUS của Mỹ. Bước đầu, một bộ hướng dẫn sàng lọc các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài vào châu Âu sẽ chính thức có hiệu lực vào năm 2020


Trong bối cảnh xu hướng phân ly đang diễn ra, các cơ quan quốc tế lại gặp khó khăn trong việc giữ vững quyền lực để duy trì trật tự thế giới. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chẳng hạn, đang gặp rắc rối khi Mỹ ngăn chặn việc bổ nhiệm các thẩm phán mới cho tòa phúc thẩm WTO. Một khi không thể trông cậy WTO giải quyết tranh chấp, các đối tác thương mại sẽ không còn cách nào khác ngoài việc đơn phương đáp trả

Các chuyên gia lo ngại biện pháp ăn miếng trả miếng sẽ có thể kéo tất cả các nền kinh tế lớn của thế giới vào tình trạng suy thoái. Bằng chứng là Mỹ, Trung Quốc, một số nước châu Âu và nhiều nền kinh tế lớn của châu Á đã chứng kiến đà tăng trưởng yếu ớt nhất trong nhiều năm. Nhiều nền kinh tế mới nổi và đang phát triển cũng bị vạ lây, vì Mỹ, Trung Quốc, EU đều là các thị trường quan trọng của họ

Có thể nói, bức tranh kinh tế - chính trị thế giới đang phủ một sắc màu u ám ở thời điểm chuyển sang năm mới. Gần đây, Quỹ Tiền tệ Quốc tế khuyến cáo kinh tế thế giới đang trưởng với tốc độ yếu ớt nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008

 
Last edited:
Chiến lược công nghiệp 4.0, ưu tiên thể chế và động lực của khu vực tư nhân
- Tháng 9-2019, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết về một số chủ trương, chính sách nhằm chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, xác lập tầm nhìn của Việt Nam cho giai đoạn bước ngoặt mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ toàn cầu. Chiến lược quốc gia về cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đến năm 2030 của Chính phủ đang được dự thảo chính là bước kế tiếp để cụ thể hóa tầm nhìn nói trên...

b0031_chienluoccongnghiep4.0_600.jpg

Chiến lược về cách mạng công nghiệp 4.0 về cơ bản đã cụ thể hóa được tầm nhìn. Nhưng thứ tự ưu tiên vẫn cần tiếp tục nghiên cứu thêm để tránh dàn trải và dẫn đến kém khả thi khi thực hiện sau này

Mục tiêu và quan điểm tiếp cận được nêu trong dự thảo chiến lược nói trên là rất tham vọng và được trình bày rõ ràng. Tuy nhiên, việc lựa chọn các ưu tiên chiến lược gắn với phân bổ nguồn lực quốc gia, cụ thể hóa thành các công việc ưu tiên của Chính phủ vẫn còn rộng, tản mát, vì vậy, nên được thu hẹp để chiến lược có trọng tâm và tính khả thi cao hơn

c0335_untitled_3_01_600.jpg

Trước nhất, cần xác định rằng động lực của phát triển khoa học và công nghệ, dù với thế giới hay Việt Nam, đều đến từ khu vực tư nhân. Chính sách và nguồn lực từ khu vực nhà nước chỉ có thể đóng vai trò hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi để khu vực tư phát huy hết tiềm năng của nó

Trên xuất phát điểm đó, chiến lược thực chất cần trọng tâm hóa vào hành động cụ thể của Chính phủ - chiến lược là dành cho Chính phủ, cho khu vực công - không nên “với” sang các công việc thuộc về khu vực tư, vừa bị “giẫm chân” vừa không có khả năng thực hiện

Do đó, trong sáu nhóm nhiệm vụ mà chiến lược đặt ra, gồm (1) xây dựng thể chế; (2) xây dựng hạ tầng kết nối và khai thác dữ liệu; (3) phát triển nguồn nhân lực, (4) xây dựng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số; (5) phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia; (6) đầu tư một số công nghệ cơ bản của cách mạng 4.0 thì ưu tiên cao nhất nên tập trung vào nhiệm vụ 1 và 3

Với nhiệm vụ 2, lựa chọn xây dựng hạ tầng số là chính xác, tuy nhiên vai trò cơ bản vẫn là khu vực tư. Còn với riêng hạ tầng viễn thông, phục vụ cho việc tăng tốc độ kết nối và phổ cập Internet, thì thúc đẩy quan hệ đối tác công tư để thu hút thêm tư nhân là quan trọng (dự thảo Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư - PPP - cũng đã tính toán và đưa lĩnh vực hạ tầng công nghệ thông tin là một lĩnh vực ưu tiên trong thu hút đầu tư)

Còn với nhiệm vụ 6, việc đầu tư công nghệ thực hiện bởi đầu tư công hay ưu tiên cho khu vực nhà nước thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu công nghệ sẽ không hiệu quả, lãng phí ngân sách như nhiều chương trình đầu tư khoa học - công nghệ lâu nay. Trong bối cảnh nợ công tăng cao, ngân sách chịu nhiều áp lực trong giai đoạn tới, nên cương quyết loại bỏ đầu tư công nghệ trong chiến lược này

Nhiệm vụ 5, thực chất là kết quả được tạo ra chủ yếu nếu thực hiện thành công nhiệm vụ 1 - có thể chế tốt, có quy định thông thoáng, năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia - nhấn mạnh lại một lần nữa, vốn là năng lực của khu vực tư, sẽ được phát huy

Cuối cùng là nhiệm vụ 4, dù được đặt ra trong chiến lược nhưng thực chất nhiệm vụ xây dựng chính phủ điện tử/chính phủ số đã là một ưu tiên lớn trong nhiệm kỳ này của Chính phủ và về cơ bản, Chính phủ đang đi đúng hướng trong lĩnh vực quan trọng này. Vì vậy, chiến lược nếu hoàn thành tốt hai nhóm mục tiêu về thể chế và phát triển nguồn nhân lực đã là một thành quả đáng ghi nhận

ca9b3_untitled_3_03_600.jpg


Lựa chọn xây dựng thể chế là ưu tiên hàng đầu (xếp vào nhóm nhiệm vụ số 1) là quyết tâm đúng. Tuy nhiên các đầu mục công việc chiến lược đặt ra vẫn chưa đủ rõ ràng và thiếu một lộ trình thực hiện cụ thể. Vì thế, cần xác định trọng tâm của cách mạng công nghiệp 4.0 trước khi xác định ưu tiên thể chế

Với nguồn lực và mức độ phát triển hiện có của Việt Nam nên ưu tiên cho công nghệ số. Cách mạng công nghiệp 4.0, vì thế nên lấy “lõi” là chuyển đổi số quốc gia và hướng tới một nền kinh tế số (thực chất khi xác định nhiệm vụ số 2 - xây dựng hạ tầng kết nối và khai thác dữ liệu cũng đã là hàm ý cho trọng tâm này). Thể chế và khuôn khổ pháp lý cho tiến trình số hóa nên tập trung vào ba nhóm giải pháp

Nhóm thứ nhất - thể chế và pháp lý cho đổi mới, sáng tạo và bảo vệ tài sản số. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo là điểm nhấn được nhắc đi nhắc lại trong chiến lược. Nhưng sáng tạo chỉ có thể thực hiện với hai điều kiện căn bản: có môi trường cho tự do sáng tạo và khi sáng tạo thì tài sản trí tuệ đó phải được bảo hộ hợp lý. Hiện nay, Việt Nam thiếu cả hai yếu tố căn bản này

Nhìn từ nền tảng và gốc rễ, triết lý giáo dục khai phóng, khuyến khích phản biện, tư duy tự do và sáng tạo chưa phải là triết lý nền tảng trong đào tạo nhân lực cho nền kinh tế số. Và nhìn từ hiện trạng, trong các yếu tố cấu thành hệ sinh thái số, tư duy sáng tạo - đặc biệt là về nội dung số chưa được khuyến khích do hệ thống kiểm duyệt và kiểm soát nội dung chặt chẽ và không còn phù hợp

Dù giáo dục là dài hạn, nhưng trong 10 năm tới, hai nhóm nỗ lực pháp lý vẫn có thể thực thi để tạo lập từng bước các yếu tố nền tảng

Đó là thay đổi cách tiếp cận, cơ chế và quy định pháp lý về kiểm soát nội dung. Trong hệ sinh thái số - sản phẩm truyền thông, thông tin, sản phẩm văn hóa (phim ảnh, âm nhạc, nghệ thuật, văn hóa) gắn chặt với thương mại điện tử, kể cả du lịch (thông qua quảng cáo và hệ sinh thái nội dung số)

Cách hiểu thiếu linh hoạt về bảo vệ văn hóa, truyền thống, thuần phong mỹ tục, lợi ích của Đảng và Nhà nước, dẫn đến quy định pháp lý mơ hồ và tạo căn cứ cho cơ quan công quyền hành xử tùy tiện như hiện nay là yếu tố cản trở nghiêm trọng tự do tư tưởng - vốn là nền tảng cho sáng tạo

Hai yếu tố quan trọng nhất của một chiến lược đó là tầm nhìn và xác lập thứ tự ưu tiên để chọn giải pháp phù hợp

Chiến lược về cách mạng công nghiệp 4.0 về cơ bản đã cụ thể hóa được tầm nhìn

Nhưng thứ tự ưu tiên vẫn cần tiếp tục nghiên cứu thêm để tránh dàn trải và dẫn đến kém khả thi khi thực hiện sau này

Tuy vậy, tự do sáng tạo và công nghệ không đi ngược lại lợi ích của Đảng và Nhà nước, mà ngược lại hoàn toàn có thể trở thành “đồng minh” - trở thành một công cụ giúp truyền thông chính sách của Đảng và Nhà nước có hiệu quả hơn. Các văn bản pháp lý chính hiện nay trong các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thông tin - ví dụ Bộ luật Hình sự 2015, Nghị định 72 năm 2013 về quản lý Internet cần phải điều chỉnh theo tinh thần mới của chiến lược

Tiếp đến là xác lập căn cứ pháp lý và giải pháp bảo vệ tài sản số, trong đó bao gồm sở hữu trí tuệ với nội dung số. Không chỉ sở hữu công nghiệp, việc vi phạm bản quyền nội dung số, xâm phạm tài sản số diễn ra với quy mô nghiêm trọng như hiện nay đã làm thui chột động lực sáng tạo của người làm công việc sáng tạo

Việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ là cần thiết theo hướng quy định thêm về bảo vệ tài sản số, bảo vệ bản quyền nội dung số. Nhưng trước đó, các triết lý về tài sản số cũng cần xác lập thêm từ điều chỉnh Bộ luật Dân sự

Nhóm giải pháp thể chế thứ hai cần chú trọng là xây dựng các cơ chế và quy định pháp lý bảo vệ an toàn số cho người dùng. An ninh mạng và an toàn thông tin được nhấn mạnh là điểm sáng của chiến lược. Cụ thể hóa điều này cần đi kèm với các quy định bảo vệ quyền riêng tư của người dùng

Cũng cần lưu ý thêm “thể chế” không có nghĩa chỉ có “luật” mới là “thể chế” còn là các cơ chế để thực thi quyền - cụ thể ở đây là các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự trong vấn đề an toàn thông tin - đặc biệt là vấn nạn phát ngôn thù ghét, bôi nhọ, xâm phạm lợi ích cá nhân trong môi trường số

Nhóm giải pháp cuối cùng, đã được đề cập trong chiến lược, là khuôn khổ cho thương mại điện tử, kinh tế chia sẻ. Bài toán về thuế cho dịch vụ xuyên biên giới, về chia sẻ lợi ích giữa các hãng công nghệ tạo ra nền tảng xuyên biên giới và cộng đồng sáng tạo nội dung/sáng tạo dịch vụ bản địa, xử lý tranh chấp số giữa người dùng, doanh nghiệp là những bài toán hóc búa cần tập trung giải quyết

Hai yếu tố quan trọng nhất của một chiến lược đó là tầm nhìn và xác lập thứ tự ưu tiên để chọn giải pháp phù hợp. Chiến lược về cách mạng công nghiệp 4.0 về cơ bản đã cụ thể hóa được tầm nhìn. Nhưng thứ tự ưu tiên vẫn cần tiếp tục nghiên cứu thêm để tránh dàn trải và dẫn đến kém khả thi khi thực hiện sau này.

Nguyễn Quang Đồng
Viện Nghiên cứu chính sách và Phát triển truyền thông
 
Bill Gates một lần nữa đưa ra 'lời tiên tri'
Nhà sáng lập Microsoft không chỉ nổi tiếng nhờ tài năng và sự giàu có, tầm nhìn trong tương lai của Bill Gates về những vấn đề toàn cầu còn khiến nhiều người nể phục

Với những ai thường xuyên theo dõi các buổi thuyết trình của chương trình TED Talks, chắc hẳn sẽ không bao giờ quên sự kiện diễn thuyết trước hàng trăm khán giả của Bill Gates năm 2015

Không nhắc về Microsoft hay sự thành công của ông, Bill Gates xuất hiện trên sân khấu với trang phục giản dị như mọi lần, đẩy một thùng phuy chứa chất thải và đưa ra những minh chứng thuyết phục về khả năng tồn vong của nhân loại bị đe dọa bởi các đại dịch

TED_talk.jpg

Bài thuyết trình tại sự kiện TED Talk năm 2015 của Bill Gates khiến nhiều người bất ngờ

“Không phải tên lửa, mà là vi khuẩn. Sự thật rằng chúng ta đã đầu tư một số tiền không nhỏ để ngăn chặn vũ khí hạt nhân, nhưng ngược lại lại đầu tư rất ít cho các hệ thống y tế”, ông nhấn mạnh

Bill Gates đã ủng hộ việc lên kế hoạch đối phó với những đại dịch trong nhiều năm, chính ông cũng nhiều lần lên tiếng cảnh báo thế giới về những gì có thể xảy ra với dân số toàn cầu nếu dịch bệnh bùng phát

Sau 5 năm, người ta mệnh danh Bill Gates với cái tên “nhà tiên tri” khi những cảnh báo trùng khớp với đại dịch Covid-19 năm 2020

Tuy nhiên, theo Business Insider, thế giới một lần nữa được phen dậy sóng sau khi Bill Gates tiếp tục dự đoán về những tình huống xấu có khả năng xảy ra trong tương lai

“Có sức công phá như Covid-19, biến đổi khí hậu thậm chí có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn. Hãy nhìn vào những gì đang diễn ra, Covid-19 đã hủy hoại nền kinh kế và ảnh hưởng đến cuộc sống mỗi người. Nếu chúng ta không giảm lượng khí thải carbon trên thế giới, thảm kịch này sẽ một lần nữa xuất hiện”, Bill Gates công bố trên blog của ông hôm 4/7

Getty.jpg

Bill Gates thường xuyên vướng vào các thuyết âm mưu cho rằng ông tạo ra Covid-19 và muốn "loại bỏ 15% dân số thế giới"

Gates so sánh tỷ lệ con người tử vong do biến đổi khí hậu sẽ có mức tăng gấp nhiều lần Covid-19, lên tới con số từ 10-73/100.000 người

“Trong vòng 40 năm tới, sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu sẽ đẩy tỷ lệ tử vong của con người lên 14/100.000 người, ngang với Covid-19. Nếu mức phát thải cuối thế kỷ vẫn ở mức cao, biến đổi hí hậu sẽ trở thành nguyên nhân khiến 73/100.000 người tử vong. Ngược lại khi chúng ta hành động kịp thời, con số có thể giảm xuống 10/100.000

Đến năm 2060, biến đổi khí hậu có thể nguy hiểm như Covid-19, cho đến năm 2100, nó có thể nguy hiểm gấp 5 lần”, nhà sáng lập Microsoft chia sẻ

Trong suốt hai thập kỷ với các hoạt động từ thiện tập trung vào cải thiện sức khỏe toàn cầu, Bill Gates đã tự dạy mình các kiến thức về khoa học

Giờ đây, không chỉ là một nhà từ thiện hay nhà sáng lập công ty công nghệ, Bill Gates còn trở thành một biểu tượng của giới tri thức, bệnh truyền nhiễm và các vấn đề toàn cầu là những lĩnh vực ông rất quan tâm
 
Đại dịch Covid-19 và bài học xương máu cho Grab

photo1597432612138-1597432612523492937233.jpg

Trong những tuần đầu xuất hiện dịch coronavirus, CEO kiêm đồng sáng lập Anthony Tan của Grab đã lầm tưởng rằng dịch bệnh này chỉ là vấn đề cục bộ của Trung Quốc giống như dịch SARS năm 2003

Khi Covid-19 bùng phát thành đại dịch khiến thị trường lao đao, CEO 38 tuổi của Grab đã phải tìm đến lời khuyên từ những nhà đầu tư lọc lõi của mình, bao gồm Chủ tịch Masayoshi Son của SoftBank và CEO Satya Nadella của Microsoft

Những lời khuyên được đưa ra rất rõ ràng: Chẳng có ai biết được cuộc khủng hoảng này sẽ kéo dài hay nghiêm trọng tới đâu. Anthony Tan hiểu rằng ông sẽ phải đặt ra những giới hạn và đưa ra những quyết định dứt khoát, bất kể đó là những quyết định không được chào đón

Tan mô tả: "Không còn gì phải bàn cãi nữa cả, chỉ có thực hiện thôi"

Tháng 6 vừa qua, Grab đã phải cắt giảm khoảng 360 người lao động, tương đương gần 5% số nhân viên chính thức, sau khi đã cắt giảm hết các khoản chi tiêu tự do

Tan tâm sự trong buổi phỏng vấn đầu tiên sau cuộc cắt giảm nhân sự: "Tôi nhớ rằng mình đã không thể ngừng rơi nước mắt. Tôi không bao giờ muốn trải qua việc này thêm một lần nào nữa"

Đại dịch Covid-19 là cuộc khủng hoảng đầu tiên đối với hệ sinh thái khởi nghiệp 10 tuổi của Đông Nam Á

Trong đó, Grab đã trở thành một cái tên quen thuộc và là doanh nghiệp khởi nghiệp lớn nhất khu vực với giá trị đạt hơn 14 tỷ USD

Khi khu vực 650 triệu dân buộc phải thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội vì dịch coronavirus, Grab đã phải đối mặt với nhu cầu giảm mạnh đối với mảng kết nối vận tải. Nhưng sau đó, gần 150 nghìn tài xế vận tải đối tác của công ty đã nhanh chóng trở thành các tài xế giao hàng tận nhà cho khách

Tan cho biết ông đã chuẩn bị sẵn sàng cho tương lai mà một phần người dùng của Grab sẽ làm việc tại nhà: "Giao đồ ăn đã trở thành thông lệ mới, mảng giao hàng tạp hóa và thanh toán điện tử đều đang phát triển rất nhanh, nên hành vi người tiêu dùng đã thay đổi vĩnh viễn bất kể có hay không có vắc-xin. Và rồi tất cả chúng ta đều được hưởng lợi"

Cung cấp các dịch vụ tài chính

Tại Indonesia, thị trường lớn nhất của Grab, Grab đang cạnh tranh dữ dội với đối thủ Gojek, đang gia tăng gấp đôi hoạt động giao hàng. Mảng giao nhận thực phẩm mới 2 năm tuổi đang dần vượt qua mảng kết nối vận tải, vốn là mảng kinh doanh chủ chốt và lâu đời của công ty này

Grab cũng phải sắp xếp lại các kế hoạch kinh doanh với các dịch vụ du lịch và lữ hành khi người tiêu dùng buộc phải ở nhà. Thay vào đó, công ty này đang đẩy mạnh các dịch vụ tài chính của mình qua việc gia tăng các giao dịch thanh toán số và nâng số lượng doanh nghiệp nhỏ đang tìm kiếm các khoản vốn vay lưu động. Các dịch vụ tài chính hiện tại của công ty bao gồm quản lý tài sản, bảo hiểm, và cho vay tài chính

Trước khi đại dịch xuất hiện, Grab đang trong công cuộc chuyển mình thành một siêu ứng dụng hàng ngày. Biến cố dịch Covid-19 đã khiến công ty phải đẩy nhanh các kế hoạch, bao gồm việc giới thiệu thêm nhiều dịch vụ cho các tài xế và người bán trên nền tảng. Công ty cho biết vẫn đang chờ kết quả xin giấy phép hoạt động ngân hàng số tại Singapore

Tan chia sẻ rằng, sự xuất hiện của đại dịch ban đầu buộc ông phải suy tính đến cuộc chiến sinh tồn của công ty trong ngắn hạn. Nhưng thời gian làm việc tại nhà trong vài tháng cùng với những lời tham vấn của các nhà lãnh đạo từ khắp nơi trên thế giới đã khiến ông phản tỉnh và suy nghĩ về những chiến lược lâu dài hơn

Tan nói rằng việc điên cuồng và chi li trong cắt giảm ngân sách đang giúp Grab tiến nhanh hơn đến mục tiêu có lãi, mặc dù ông không đưa ra một khoảng thời gian cụ thể

Khi nhận xét về tác động của đại dịch đối với Grab, Jixun Foo, giám đốc điều hành Quỹ GGV Capital và là một trong những nhà đầu tư đầu tiên của Grab, cho rằng tốc độ là điều tối quan trọng. Ông nói thêm: "Khi thuận lợi thì người người nhà nhà đều cố gắng giành giật thị phần. Nhưng khi một cơn sóng thần xuất hiện, những công ty tốt nhất sẽ phản ứng nhanh nhất và điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình một cách nhanh nhất"

Grab hiện đang hoạt động tại 351 thành phố ở 8 quốc gia Đông Nam Á. Năm 2018, công ty này đã thu hút sự chú ý toàn cầu khi buộc Uber phải bán lại mảng kinh doanh trong khu vực Đông Nam Á cho mình sau 5 năm cạnh tranh khốc liệt. Đổi lại, Uber nắm giữ một lượng cổ phần tại Grab. Số liệu của Grab cho thấy ứng dụng này đã có tổng cộng 198 triệu lượt tải xuống và một mạng lưới hơn 9 triệu tài xế, người bán và các đại lý
 
S&P Global đồng ý chi 44 tỉ đô la thâu tóm IHS Markit
Hôm 30-11, hãng thông tin và phân tích tài chính S&P Global (Mỹ) nhất trí chi 44 tỉ đô la Mỹ để thâu tóm hãng nghiên cứu thị trường IHS Markit (Anh) trong một thương vụ sáp nhập hai nhà cung cấp dữ liệu tài chính lớn nhất cho Phố Wall

Thương vụ thâu tóm lớn nhất năm 2020

Với trị giá 44 tỉ đô la, bao gồm nợ, đây là thương vụ thâu tóm có giá trị lớn nhất thế giới trong năm nay, theo dữ liệu của Dealogic. Hãng nghiên cứu thị trường IHS Markit có trụ sở ở London, mức vốn hóa thị trường khoảng 37 tỉ đô la trước khi thương vụ được thông báo và con số này của S&P Global là 82 tỉ đô la

50ced_anh_bai.jpg

S&P Global nhất trí chi 44 tỉ đô la Mỹ để thâu tóm hãng nghiên cứu thị trường IHS Markit

Cả hai bên cho biết các cổ đông của IHS Markit sẽ nhận được 0,2838 cổ phiếu của S&P Global quy đổi cho mỗi cổ phiếu IHS Markit. Douglas Peterson, Giám đốc điều hành (CEO) S&P Global sẽ tiếp quản ghế CEO của công ty mới sau khi sáp nhập

Thương vụ này sẽ kết hợp một trong những tên tuổi lâu đời nhất trên thị trường tài chính với một công ty còn tương đối non trẻ. Tiền thân của S&P Global là một ấn phẩm tóm tắt thông tin cho các nhà đầu tư đường sắt từ thập niên 1860. Công ty này giờ đây nổi tiếng với dịch vụ xếp hạng tín nhiệm nợ của các doanh nghiệp và chính phủ cũng như và các chỉ số theo dõi thị trường chứng khoán quan trọng trên toàn cầu

IHS Markit được thành lập vào năm 2003 ở ngoại ô London bởi Lance Uggla, một cựu lãnh đạo của Ngân hàng đầu tư TD Securities. Công ty này tiến hành chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) vào năm 2014 và huy động được 1,3 tỉ đô la

Năm 2016, IHS (Mỹ), chuyên cung cấp các báo cáo phân tích cho các doanh nghiệp và chính phủ, mua lại hãng nghiên cứu Markit ở London và di chuyển trụ sở đến Anh, đổi tên thành IHS Markit

Vào thời điểm IHS và Markit tiến hành sáp nhập, hai công ty này có tổng vốn hóa thị trường khoảng 13 tỉ đô la. Hiện nay, mức định giá của IHS Markit đã tăng gần gấp ba lần, một dấu hiệu cho thấy thị trường dữ liệu tài chính nóng như thế nào

IHS Markit theo dõi hàng triệu điểm dữ liệu trên các thị trường tài chính. Công ty này sở hữu một phần mềm mà các ngân hàng lớn ở Phố Wall đang sử dụng để ra các quyết định bảo lãnh phát hành cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp đồng thời theo dõi dữ liệu trên thị trường năng lượng và vận tải

Thị trường dữ liệu tài chính ngày càng nóng

Thị trường dữ liệu tài chính bùng nổ trong hai thập kỷ qua khi các thị trường ngày càng dựa vào các chiến lược đầu tư cổ phiếu do máy tính đưa ra, thay thế cho những quyết định của con người

Trong những năm gần đây, các nhà cung cấp dữ liệu tài chính chấp nhận sáp nhập vào một số hãng thông tin tài chính khổng lồ khi các nhà cung cấp dữ liệu như S&P Global và FactSet cạnh tranh quyết liệt với các sàn giao dịch lớn đang nỗ lực kiếm tiền bằng cách bán dữ liệu định giá cổ phiếu của họ để bù đắp cho mức doanh thu phí giao dịch đang sụt giảm

Thương vụ S&P Global thâu tóm IHS Markit, công ty đang có đội ngũ hùng hậu gồm hơn 5.000 nhà phân tích, nhà khoa học dữ liệu, chuyên gia tài chính... là một phần của cuộc chạy đua mở rộng quy mô kinh doanh khi các tay chơi lớn nhất trong ngành dữ liệu tài chính tận dụng nhu cầu đang tăng vọt đối với các dữ liệu và báo cáo phân tích thị trường trên các thị trường tài chính ngày càng được vi tính hóa

Năm 2018, Tập đoàn đầu tư Blackstone đã mua lượng cổ phần kiểm soát ở đơn vị dữ liệu tài chính của Công ty Thomson Reuters Corp. và đổi tên thành Refinitiv. Một năm sau đó, Blackstone bán lại Refinitiv cho chủ sở hữu của Sàn giao dịch chứng khoán London với giá 27 tỉ đô la. Hồi tháng 8, Intercontinental Exchanges, chủ sở hữu Sàn giao dịch chứng khoán New York, chi 11 tỉ đô la để thâu tóm Ellie Mae, nhà cung cấp dữ liệu vay thế chấp bất động sản tại Mỹ

S&P Global giờ đây đang mở rộng kinh doanh sau nhiều năm thu hẹp. Doanh thu của S&P Global tăng 9% trong quí 3 vừa qua và ghi nhận sự cải thiện ở tất cả các mảng kinh doanh, đặc biệt là mảng xếp hạng tín nhiệm nợ của doanh nghiệp. Mảng kinh doanh này được hưởng lợi khi các doanh nghiệp ồ ạt phát hành trái phiếu để tận dụng các mức lãi suất thấp kỷ lục

Cổ phiếu của S&P Global, IHS Markit và các đối thủ bao gồm MSCI Inc., tăng mạnh trong những năm gần đây, cung cấp cho họ lượng tiền mặt dồi dào để săn lùng các thương vụ thâu tóm và sáp nhập (M&A)

“Đây là vụ sáp nhập khổng lồ về dịch vụ và dữ liệu tài chính. S&P Global có thể suy luận rằng việc mở rộng dần dần sẽ không có hiệu quả vì vậy, công ty này quyết định thực hiện vụ thâu tóm lớn để giúp mở rộng các sản phẩm”

Tuy nhiên, Craig A. Huber, người sáng lập Công ty of Huber Research Partners, lưu ý sự giám sát của các cơ quan quản lý có thể là rào cản cho thương vụ S&P Global - IHS Market vì cả hai bên có nhiều mảng kinh doanh giống nhau

Đồng tình với nhận định này, Giám đốc chi nhánh Công ty tư vấn và đầu tư United First Partners tại Singapore, nói: “Các quy định chống độc quyền có thể là vấn đề lớn cho thương vụ này vì cả hai bên đều là các nhà cung cấp dữ liệu thị trường”, Jin Rui Oh

Chánh Tài
 
Một dân tộc không có lực lượng tư duy chiến lược chuyên nghiệp, hoặc có nhưng què quặt, thì dẫu có độc lập đi nữa, cũng sẽ rơi vào trạng thái nô lệ mới: nô lệ về trí tuệ, dẫu có mở cửa đi nữa, thì cũng rơi vào trạng thái cô lập mới: cô lập về trí tuệ

Ngày nay, tầng lớp tư duy chiến lược, được tập hợp dưới hình thức các think tanks, là một trong những tầng lớp chủ chốt đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. Những quốc gia không có lực lượng này, hoặc có nhưng què quặt, hoặc không thể phát triển nó vì những lí do chủ quan, thì không thể phát triển được

Hội nhập với thế giới từ một xuất phát điểm khá thấp, Việt Nam cần có nhận thức đúng đắn về vai trò cốt tử của lực lượng think tanks đối với sự hưng vong của quốc gia, để từ đó, bắt đầu tiến trình tái cấu trúc bằng cách xây dựng lực lượng think tanks cho dân tộc mình

I. Quyết định vận mệnh một dân tộc

Chất lượng chính sách là yếu tố quyết định vận mệnh quốc gia, do đó, các nhóm tư duy chiến lược (think tanks) của mỗi quốc gia cũng đóng vai trò quyết định đối với vận mệnh nó

1. Để dễ hiểu với Việt Nam, hãy nhìn từ trường hợp gần gũi nhất, Trung Quốc

Một dân tộc không có lực lượng tư duy chiến lược chuyên nghiệp, hoặc có nhưng què quặt, thì dẫu có độc lập đi nữa, cũng sẽ rơi vào trạng thái nô lệ mới: nô lệ về trí tuệ, dẫu có mở cửa đi nữa, thì cũng rơi vào trạng thái cô lập mới: cô lập về trí tuệ...

Để hội nhập với thế giới, đất nước cần có một tầng lớp tư duy chiến lược, và họ phải hội nhập trước. Chúng ta sẽ không thể hội nhập và phát triển nếu ngay ở mắt xích đầu tiên là lực lượng tư duy vẫn còn bị thế giới bỏ rơi

Ở Trung Quốc, trong lĩnh vực kinh tế, bắt đầu từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước, lực lượng tư duy chiến lược đã đóng vai trò quyết định thay đổi vận mệnh của nước này. Họ đã tái cấu trúc tiến trình ra quyết định của chính phủ, giúp lãnh đạo Trung Quốc chuyển từ kiểu tư duy kế hoạch sang tư duy chiến lược

Quá trình tái cấu trúc này được bắt đầu với các dự án sản xuất thép. Như ta đã biết, thời chủ tịch Mao Trạch Đông, tư duy kế hoạch có hai điểm mấu chốt sau. Một là, nó tư duy bằng các chỉ tiêu, thay vì bằng các mục tiêu. Hai là, để thực hiện được các chỉ tiêu đó, nó phải phát động các phong trào. Để lôi cuốn toàn dân lao vào các phong trào, nó tạo ra những "ngọn cờ" và giảm thiểu tinh thần đối thoại trong xã hội

"Người cầm lái vĩ đại" đã quyết định tất cả, không dùng đến đội ngũ chuyên gia kinh tế và kỹ thuật, không hoạch định chiến lược trên cơ sở tri thức khoa học. Hậu quả là, Trung Quốc trong một thời gian ngắn đã sản xuất một lượng thép đứng thứ 4 thế giới, nhưng chất lượng thấp đến nỗi không dùng được vào việc gì, vẫn phải nhập khẩu thép của Nhật Bản, đồng thời khiến hàng chục triệu người chết đói

Tiến sĩ Xuanli Liao ở The Chinese University of Hong Kong, trong một công trình nghiên cứu về các think tanks Trung Quốc, đã chỉ ra rằng, sau khi Mao Chủ tịch qua đời, đến thời Hoa Quốc Phong, các dự án thép vẫn được thực hiện theo cách cũ

Nhưng xã hội Trung Quốc lúc này đã xuất hiện nhân tố mới. Việc bình thường quan hệ với Nhật Bản từ 1972 giúp cho các chuyên gia Trung Quốc tiếp cận với các kỹ thuật hoạch định chiến lược của Tập đoàn thép Nippon Steel (Nhật Bản), bên cạnh đó, không khí dân chủ được cởi mở hơn, nên may mắn cho Trung Quốc, lần đầu tiên sau bao nhiêu quằn quại, Chính phủ đã biết lắng nghe chiến lược của các chuyên gia, những "đại nhảy vọt" kiểu mới được chấm dứt, và dự án thép Baogang hợp tác với Nippon Steel đã thành công tốt đẹp. Trung Quốc có được một "đại gia thép" của riêng mình

Bắt đầu từ đó đến nay, chính phủ Trung Quốc bước vào một trang sử mới, trang sử kết hợp giữa "lãnh đạo" và "trí tuệ", vượt thoát kiểu lãnh đạo duy ý chí trước đó

Nhờ vậy, Trung Quốc bước vào giai đoạn lịch sử mới, thời đại mà tư duy chiến lược không còn là việc của các "quân sư quạt mo", mà là của một lực lượng think tanks đông đảo, đóng vai trò quyết định cho những chính sách tạo ra những đổi thay tích cực nhất của đất nước họ

2. Ở một số nước Đông Âu, khi chuyển từ thể chế xã hội chủ nghĩa (tư duy bằng chỉ tiêu, cụ thể hóa bằng nghị quyết Đảng, vận hành bằng phong trào) sang nhà nước pháp quyền (tư duy bằng mục tiêu, hoạch định bằng chính sách và vận hành chính sách bằng luật pháp), do thói quen cũ, cũng đã gặp nhiều bất cập trong quá trình ra quyết sách

Theo Nguyễn Đức Lam, ở Slovakia, cũng như hầu hết các nước, văn bản pháp luật là công cụ chủ yếu để nhà nước thực thi chính sách. Thế nhưng, trong quá trình ra quyết sách, người ta thường bỏ qua khâu phân tích chiến lược. Hệ quả là, 60% các dự luật trình lên nội các để xin ý kiến trước khi chuyển sang Nghị viện không hề có văn bản phân tích chính sách kèm theo. Số còn lại thì có văn bản luận chứng nhưng trong đó lại thiếu lập luận, dẫn chứng, số liệu thuyết phục

Tuy nhiên, những bất cập này ở Đông Âu 20 năm trước đã được Tây Âu hỗ trợ để khắc phục, và Slovakia là một trong những nước thực sự bứt phá. Ngày nay, Slovakia, vốn chuyển đổi kinh tế sau Việt Nam 3 năm, nhưng đã thành công hơn chúng ta nhiều. Năm 2009, chúng ta hoan hỷ được thế giới viện trợ 8 tỷ USD. Trước đó một năm, trên website của World Bank có một mẩu tin ngắn: Slovakia đã chấm dứt nhận viện trợ và trở thành một nước viện trợ lại nước khác trong khuôn khổ World Bank

II. Kết nối các quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa

Ngày nay, ở các nước có trình độ tổ chức cao, do các think tanks nằm ở vị trí then chốt của quá trình thiết lập chính sách, nên giữa các chính trị gia đứng ở "những đỉnh cao chỉ huy" và các think tanks của nước đó, luôn có mối quan hệ mật thiết

1. Ở Mỹ, Đảng Cộng hòa có quan hệ mật thiết với Heritage Foundation. Think tank này cũng là nơi nhiều học giả nổi tiếng như Richard V. Allen, Lawrence Di Rita, John Lehman, Steve Ritchie... đi thẳng từ phòng nghiên cứu đến các vị trí chủ chốt của bộ máy vận hành nước Mỹ

Những think tank thiên về phục vụ cho các đảng phái chính trị như Heritage Foundation thường là ngôi trường đào tạo thực tiễn cho các chính trị gia trưởng thành. Đó là môi trường sinh hoạt tri thức cho cả các lãnh đạo chính trị lão luyện lẫn những tài năng chính trị kế cận

2. Tiến sĩ Cheng Ly, trong một semina ở Brookings Institution, tháng 10/2008, đã trình bày về mối quan hệ mật thiết giữa các lãnh đạo Trung Quốc và các think tanks hàng đầu ở nước này. Wang Huning, Hiệu trưởng Trường Luật của Đại học Phúc Đán (Thượng Hải) và nhóm nghiên cứu của ông là người xây dựng cho chủ tịch Giang Trạch Dân lý thuyết "Ba đại diện". Sun Qingju, Hiệu phó Trường Đảng Trung ương, là người giúp Chủ tịch Hồ Cẩm Đào xây dựng thuyết "trỗi dậy hòa bình"

Đặc biệt, Hồ Cẩm Đào, sau khi lên Tổng Bí thư năm 2003, đã liên tục mời các think tanks hàng đầu Trung Quốc đến giảng bài cho Bộ Chính trị. Đến 2008, Bộ Chính trị Trung Quốc đã học 52 khóa giảng như vậy [4], tính trung bình hơn 8 khóa học một năm, cứ một tháng rưỡi thì có một khóa. Cũng năm 2008, Chính phủ Trung Quốc xếp hạng và tuyên dương 10 think tanks hàng đầu của đất nước

So với việc Lưu Bị ba lần cúi rạp mình trước lều Khổng Minh, lãnh đạo Trung Quốc ở thế kỷ XXI cũng "hoành tráng" không kém

3. Những mối quan hệ đặc biệt trên là hiện tượng phổ biến ở các nước phát triển, cho nên ngày nay, trong quan hệ quốc tế, có hai hiện tượng sau

Một là, mối quan hệ giữa các think tanks chủ chốt của các nước cũng có vai trò quan trọng không kém mối quan hệ giữa các nhà lãnh đạo của các nước đó. Bernhard May, trong một nghiên cứu về vị trí của các think tanks trong mối quan hệ ASEAN và EU, cho biết, trong khoảng những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, lực lượng tư duy chiến lược về địa - chính trị ở Tây Âu đã xao lãng Đông Nam Á. Các nước Đông Âu bắt đầu hội nhập với Tây Âu khiến họ phải chú mục vào hướng đó, và Đông Nam Á sau khủng hoảng năm 1997 thì không còn là một đối tượng nghiên cứu "hấp dẫn". Hệ quả là, các chính trị gia của EU cũng thờ ơ theo. Để cải thiện mối quan hệ giữa ASEAN - EU thì một trong những việc cần làm là cải thiện mối quan hệ giữa lực lượng nghiên cứu chiến lược của hai khối

Hai là, ngày nay, trong các liên minh quốc gia, xây dựng một lực lượng tư duy chiến lược chung ngày càng trở thành điều không thể thiếu. Ở châu Âu, "European Policy Center", một think tank độc lập và phi lợi nhuận, đảm nhận sứ mệnh nghiên cứu những chính sách lớn, không phải cho một nước riêng biệt mà cho toàn EU

Ở Nhật Bản, để thúc đẩy chiến lược xây dựng cộng đồng chung Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) theo mô hình EU của Châu Âu, nhóm think tank NIRA của Nhật Bản, vốn có quan hệ học thuật mật thiết với European Policy Center của Châu Âu, đã nghiên cứu kỹ lưỡng mô hình EU, so sánh với thực tiễn 3 nước Đông Á, nhằm rút ra những bài học kinh nhiệm cốt tủy. Quan hệ giữa các think tanks của ba nước Đông Bắc Á này cũng ngày càng thắt chặt, cho nên trong tương lai, họ hoàn toàn có khả năng hình thành một Nhóm tư duy chiến lược chung, kiểu như "European Policy Center" của EU

Slovakia, vốn chuyển đổi kinh tế sau Việt Nam 3 năm, nhưng đã thành công hơn chúng ta nhiều. Năm 2009, chúng ta hoan hỷ được thế giới viện trợ 8 tỷ USD. Trước đó một năm, trên website của World Bank có một mẩu tin ngắn: Slovakia đã chấm dứt nhận viện trợ và trở thành một nước viện trợ lại nước khác trong khuôn khổ World Bank

4. Xem xét kinh nghiệm của châu Âu và Đông Bắc Á thì có thể thấy rằng, ở Đông Nam Á, để có thể xây dựng một ASEAN vững mạnh, cần xây dựng một mạng lưới think tanks xuyên quốc gia của ASEAN

Ngay ở khu vực Đông Nam Á, cũng đã có những think tanks dân sự được thế giới kính nể, chăm chú chờ đợi hành trình tư duy của họ, như "Third World Network" và "Malaysian Institute of Economic Research" của Malaysia, "Institute for Defense and Strategic Studies" và "Institute of Southeast Asian Studies" của Singapore...

Một lực lượng tư duy chiến lược chung, dù mang hình thức "phi chính phủ" hoặc "chính phủ", là điều không thể thiếu để giúp ASEAN giải quyết những vấn đề chung của cả khối, trong đó có vấn đề "đường lưỡi bò" của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng như chiến lược chia rẽ ASEAN của Trung Quốc

5. Think tanks, như vậy, cần được xem là công cụ, là cánh cửa thiết yếu để thông qua đó, những quốc gia và khu vực chậm tiến có thể lĩnh hội và bắt kịp dòng chảy tư duy của khu vực tiên tiến. Một dân tộc không có lực lượng tư duy chiến lược chuyên nghiệp, hoặc có nhưng què quặt, thì dẫu có độc lập đi nữa, cũng sẽ rơi vào trạng thái nô lệ mới: nô lệ về trí tuệ, dẫu có mở cửa đi nữa, thì cũng rơi vào trạng thái cô lập mới: cô lập về trí tuệ

Nước ta cũng chuyển đổi tương tự như Trung Quốc, nhưng lực lượng tư duy chiến lược, đáng tiếc thay, chưa được nhìn nhận đúng tầm quan trọng và chưa trở thành một thành phần xã hội chuyên biệt như ở Trung Quốc. Để hội nhập với thế giới, đất nước cần có một tầng lớp tư duy chiến lược, và họ phải hội nhập trước. Chúng ta sẽ không thể hội nhập và phát triển nếu ngay ở mắt xích đầu tiên là lực lượng tư duy vẫn còn bị thế giới bỏ rơi

III. Tiên phong trong cuộc đua trí tuệ giữa các dân tộc

Lực lượng tư duy chiến lược của các quốc gia nằm ở vị trí then chốt trong cuộc tranh đua trí tuệ giữa các dân tộc

1. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn của Việt Nam hôm nay, xây dựng được một lực lượng tư duy chiến lược hùng mạnh là điều kiện tiền đề về mặt cơ cấu và tổ chức xã hội để chúng ta thay đổi số phận

Lịch sử tranh sống để sinh tồn giữa các dân tộc, xét đến cùng, là đua tranh về trí tuệ. Và cuộc đấu trí giữa các quốc gia cũng đồng thời là cuộc đấu trí giữa lực lượng tư duy chiến lược của họ. Điều này không chỉ đúng trong thời đại "kinh tế tri thức" mà còn đúng trong các thời đại trước đây

2. Một ví dụ tiêu biểu là "Cơ quan nghiên cứu đường sắt Mãn Châu" của Nhật Bản đầu thế kỷ XX. Theo giáo sư Kobayashi Hideo, Đại học Waseda, khi được thành lập năm 1907, nhiệm vụ của think tank này là hoạch định kế hoạch xây dựng hệ thống đường sắt ở Mãn Châu và Hoa Bắc, trên cơ sở đặt dự án này trong nghiên cứu chiến lược toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, lịch sử, xã hội, dân tộc học, các vấn đề tổng hợp Nga - Trung Quốc

So sánh với dự án "đường sắt cao tốc" của Việt Nam năm 2010, xét ở tính khoa học- dân chủ - trí tuệ trong cấu trúc của tiến trình hoạch định chính sách và ra quyết định, Việt Nam vẫn chưa trưởng thành bằng Nhật Bản hơn 100 năm trước

Đến giai đoạn Nhật chuẩn bị cho chiến tranh thế giới thứ 2, think tank nói trên đã phát triển đến quy mô hơn 2.000 chuyên gia. Dù vẫn giữ lại cái tên cũ vốn đã thành "thương hiệu", think tank này đã đóng vai trò là "bộ não" của Nhật Bản, nghiên cứu toàn diện từ Trung Quốc đến các nước Đông Nam Á, chuẩn bị nền tảng khoa học cho chiến lược tổng thể của Nhật Bản giai đoạn này đối với châu Á

Đương thời, cả châu Á không có một lực lượng trí thức nào đủ tầm vóc trí tuệ và quy mô tổ chức để có thể giúp nước mình đối địch với think tank này của Nhật Bản. Bước chân của Nhật chỉ bị chặn lại khi giới quân sự của họ bỏ quên tư duy chiến lược của các chuyên gia, tấn công Trân Châu cảng khiến Hoa Kỳ tham chiến

Được rèn luyện trí tuệ bằng tư duy cờ vây, người Trung Quốc là bậc thầy của khả năng đưa quân cờ của mình tiến vào cấu trúc của đối phương để thay đổi từng yếu tố trong cấu trúc đó, dần dần tiến tới phá vỡ toàn bộ cấu trúc. Họ là bậc thầy trong việc hoạch định những nước cờ "tầm thường" để di chuyển những quân cờ "tầm thường" đến những vị trí "tầm thường" - "tầm thường" trong thời điểm hiện tại nhưng sẽ trở thành một quả đấm thép trong một cục diện mới

3. Think tanks, như trên đã nói, không phải là điều xa lạ đối với văn hóa Trung Quốc. Trong cách tư duy của họ, vì lực lượng tư duy chiến lược có vai trò then chốt quyết định sự thành bại, tồn vong của các quốc gia trong cuộc đua tranh trí tuệ, cho nên, triệt tiêu lực lượng tư duy chiến lược của đối phương là một trong những chiến lược chủ chốt và xuyên suốt

Cơ đồ nước Sở của Hạng Vũ bắt đầu sụp đổ khi Lưu Bang lừa Hạng Vũ đuổi nhà tư duy chiến lược thiên tài của mình là Phạm Tăng. Cục diện của trận chiến Xích Bích bắt đầu ngã ngũ khi phía Thục - Ngô bày mưu cho nhà tư duy chiến lược giỏi nhất phía Tào Tháo là Từ Thứ lui về hậu tuyến. Có thể tìm thấy vô số câu chuyện như vậy trong lịch sử tư duy của Trung Quốc

Loại tư duy này không hề có trong lịch sử tư duy châu Âu. Phương thức tiến hành chiến tranh nổi bật của phương Tây là dàn trận và triển khai tối đa sức mạnh của binh lực. Ở Trung Quốc, loại tư duy nổi bật là "tướng giỏi là tướng không đánh mà vẫn thắng". "Không đánh" không có nghĩa là không động binh, mà là làm cho đối phương tan rã và sụp đổ trước khi ra đòn quyết định cuối cùng. Trong loại tư duy này, chiến trường không chỉ là một đại dương, một thảo nguyên để hai bên dàn trận. Trong đầu óc Câu Tiễn, chiếc giường mà nàng Tây Thi ngủ với Ngô Phù Sai cũng là một phần chiến trường

Trong chiến tranh châu Âu, phân định thắng bại rất nhanh chóng. Bởi cuộc chiến kết thúc sau khi người lính cuối cùng gục ngã. Trong tư duy Trung Quốc, ngay cả khi đã thâu tóm được đối phương, việc kiểm soát sao cho nó không thể phục hồi vẫn luôn là nhiệm vụ bắt buộc, thành ra, cuộc sống là một "cuộc chiến" vĩnh viễn

4. Đối đầu với loại tư duy nói trên của Trung Quốc là không đơn giản. Người ta buộc phải bắt kịp mọi diễn biến trong tư duy của họ. Những quốc gia không có lực lượng tư duy chiến lược, hoặc có nhưng què quặt, khó có thể là đối thủ của Trung Quốc

Vấn đề biển đảo hiện nay là một ví dụ. Nó không đơn giản là một vụ "lình xình" ngắn hạn giữa nước ta và Trung Quốc. Phương hướng giải quyết chỉ có thể nhìn thấy rõ ràng nếu đặt vấn đề ấy trong bối cảnh cuộc tranh sống để sinh tồn của dân tộc ta trước người khổng lồ. Bản chất của tranh chấp Biển Đông là cuộc so tài về phương thức tư duy, về giáo dục và văn hóa, về khoa học kỹ thuật, về khả năng sáng tạo, về cách cách tổ chức đời sống xã hội, về quan hệ quốc tế, về... mọi mặt

Cả Trung Quốc và Đài Loan đều đã có nhiều think tanks, cả "chính phủ" lẫn "phi chính phủ", chuyên trách về vấn đề Biển Đông, cho nên nếu Việt Nam và các nước Đông Nam Á hải đảo chỉ có các chính trị gia ngồi lại với nhau "bàn mưu tính kế" thì chúng ta không thể so sánh với họ, ngay từ trong khâu chiến lược

5. Chiến lược "không đánh mà thắng" của Trung Quốc dựa trên một phương thức tư duy chiến lược đặc biệt, "tư duy cờ vây"

Nguyên tắc thời gian trong chơi cờ vây là không quan tâm đến thời điểm thắng, chỉ cần biết sẽ thắng. Áp dụng nguyên lý cờ vây vào đời sống thực tại, họ nhìn quả địa cầu này như một bàn cờ vây vĩnh viễn. Người chơi cờ vây phải có một năng lực tư duy toàn cục rất cao để có thể tính trước được xu thế vận động của nhiều nhóm quân cùng một lúc, không chỉ nhóm quân của mình của cả nhóm quân của đối phương, nhằm bành trướng diện tích trên bàn cờ

Được rèn luyện trí tuệ bằng tư duy cờ vây, người Trung Quốc là bậc thầy của khả năng đưa quân cờ của mình tiến vào cấu trúc của đối phương để thay đổi từng yếu tố trong cấu trúc đó, dần dần tiến tới phá vỡ toàn bộ cấu trúc. Họ là bậc thầy trong việc hoạch định những nước cờ "tầm thường" để di chuyển những quân cờ "tầm thường" đến những vị trí "tầm thường" - "tầm thường" trong thời điểm hiện tại nhưng sẽ trở thành một quả đấm thép trong một cục diện mới

Đối thủ duy nhất của tư duy cờ vây là chính nó. Ngày nay, để hiện thực hóa phương thức tư duy ấy, thì một cá nhân không thể làm được. Nếu người đồng chí khổng lồ của chúng ta đã có trên 700 think tanks, có tài liệu của Trung Quốc nói là trên 2000 think tanks, cả ở cấp nhà nước lẫn tư nhân, lại có một truyền thống tư duy chiến lược đặc biệt, thì Việt Nam để có thể tìm được một "cửa sinh" giữa muôn vàn "cửa tử" của thế giới này, cần ít nhất 1/10 số đó

Tác giả: Nguyễn Lương Hải Khôi
 
Hoạt động của các think tank ở Hoa Kỳ
- “Think tank” là những tổ chức nghiên cứu chính sách, có chức năng chính là nghiên cứu, tư vấn, phản biện, và xây dựng các đề xuất chính sách. Trong nền chính trị Hoa Kỳ hiện đại, think tank được ví như những “chiếc hộp tư duy”, thực hiện vai trò cầu nối giữa “tri thức” và “quyền lực”. Hoạt động của các think tank rất đa dạng: tiến hành các nghiên cứu, cung cấp các xuất bản phẩm, tổ chức các buổi thuyết trình hay tranh luận chính sách, tham gia vào vận động chính sách. Bài viết trình bày hoạt động của các think tank ở Hoa Kỳ, nhận diện những ảnh hưởng của các think tank trong đời sống chính trị và quy trình chính sách ở Hoa Kỳ

1. Khái lược think tank ở Hoa Kỳ hiện nay

Theo thống kê, Hoa Kỳ hiện có khoảng 1800 “think tank” - thường được hiểu là những tổ chức nghiên cứu chính sách, có chức năng nghiên cứu, tư vấn, phản biện, và xây dựng các đề xuất chính sách. Bởi vậy, “think tank” thường được ví như “những chiếc hộp tư duy” hay “những nhà máy sản xuất ý tưởng”. Trên thực tế, do sự đa dạng về loại hình tổ chức, hoạt động, ngân sách và nhân sự... cho nên rất khó đưa ra một định nghĩa phổ quát về think tank. Theo Rich và Weaver (2011), khái niệm “think tank” đề cập đến các tổ chức với ba đặc điểm chính

(i) cung cấp dịch vụ nghiên cứu và tư vấn chính sách

(ii) độc lập về mặt tổ chức, và đôi khi cả mặt tài chính, với chính quyền và các trường đại học

(iii) hoạt động dựa trên cơ sở phi lợi nhuận

Tuy nhiên, thực tế Hoa Kỳ cho thấy, rất khó phân biệt các think tank với các tổ chức vận động xã hội hay các tổ chức NGOs bởi ranh giới giữa chúng là rất khó phân định. Thực tế này dẫn đến những cách thức xác định và thống kê số lượng think tank khác nhau. Một cách nhận biết phổ biến là chia các think tank ở Hoa Kỳ thành bốn nhóm với những đặc trưng nổi bật

(i) Think tank nghiên cứu - tập trung vào các hoạt động nghiên cứu chính trị và phân tích chính sách

(ii) Think tank hợp đồng - hoạt động chủ yếu đáp ứng nhu cầu của các đối tác

(iii) Think tank tư tưởng - hoạt động theo thiên hướng tư tưởng hoặc chính trị đảng phái, hướng đến các kết quả chính trị cụ thể

Để thực hiện được các mục đích trên, các think tank áp dụng nhiều chiến lược hoạt động khác nhau. Họ có thể tuyển dụng các học giả để triển khai các nghiên cứu tự do, phân công các học giả nghiên cứu những vấn đề mà tổ chức hoặc các nhà tài trợ yêu cầu, hoặc tham gia những nghiên cứu theo đơn đặt hàng của khách hàng. Các hoạt động và sản phẩm của think tank chính là nguồn tham khảo cho các ý tưởng chính sách của chính quyền Hoa Kỳ. Cụ thể hơn, think tank ở Hoa Kỳ tập trung vào một số hoạt động sau đây

- Tổ chức các diễn đàn hoặc hội thảo để thảo luận các vấn đề chính sách.

- Các nhà nghiên cứu thực hiện các bài phát biểu hoặc thuyết trình.

- Điều trần trước các ủy ban hoặc tiểu ban của Quốc hội khi được yêu cầu.

- Xuất bản sách, tạp chí, báo và các báo cáo chính sách.

- Sản xuất các video giành cho công chúng số đông về các vấn đề chính sách.

- Tạo ra các websites để công chúng có thể tiếp cận và thu thập xuất bản phẩm.

- Tổ chức gây quỹ hàng năm.

- Thu hút báo chí và truyền thông để hình ảnh tổ chức và các chuyên gia được xuất hiện và gây ảnh hưởng.

- Các chuyên gia đảm nhận các vị trí chính trị và chuyên môn trong chính quyền.

- Các chuyên gia tham gia các nhóm cố vấn tổng thống hoặc nhóm làm việc trong các giai đoạn chuyển giao nhiệm kỳ tổng thống.

- Duy trì văn phòng liên lạc với lưỡng viện Quốc hội.

- Mời các nhà hoạch định chính sách tham dự các hội thảo hoặc thảo luận chính sách có giới hạn người tham dự.

- Cho phép các quan chức chuyên môn làm việc ngắn hạn.

- Cung cấp vị trí và cơ hội làm việc dài hạn cho các cựu quan chức.

- Thực hiện nghiên cứu chính sách và soạn thảo báo cáo chính sách theo yêu cầu của các nhà hoạch định chính sách.

2. Ảnh hưởng của think tank trong nền chính trị Hoa Kỳ hiện đại

Ảnh hưởng tích cực:

Thứ nhất, cung cấp thông tin và kiến thức chuyên môn về chính sách cho chính quyền và xã hội nói chung. Think tank được coi là “nhà máy sản xuất ý tưởng hành động” phục vụ trước hết cho nhu cầu của các nhà hoạch định chính sách. Những kiến giải, phân tích, bình luận của chuyên gia think tank có thể giúp định hình nhận thức chính sách của quan chức chính quyền, ảnh hưởng đến trật tự ưu tiên giữa các lựa chọn hành động, đề ra lộ trình hành động, gây dựng các liên minh hành động, cũng như góp phần tạo dựng thiết kế thể chế. Cùng với thời gian, các think tank có thêm chức năng vận động chính sách để có thể thực sự tạo được ảnh hưởng đến các quyết sách của chính quyền. Để đạt được những mục đích này, think tank chủ động tìm kiếm và gia tăng mức độ tương tác với chính quyền thông qua nhiều hình thức khác nhau. Do đó, các học giả và chuyên gia think tank đã tự ví họ như cây cầu nối giữa cộng đồng khoa học hàn lâm với chính quyền và công chúng. Họ là những người nắm bắt và tìm cách xử lý các vấn đề hiện đang diễn ra chứ không phải chỉ tìm cách lý giải những vấn đề lý thuyết quá hàn lâm, không thực sự đáp ứng nhu cầu của số đông công chúng

Thứ hai, cung cấp nhân sự chất lượng cao cho chính quyền và nền chính trị Hoa Kỳ. Một đặc điểm của đội ngũ nhân sự chính quyền Hoa Kỳ là luôn thay đổi sau mỗi kỳ bầu cử. Chẳng hạn, với chính quyền liên bang, mỗi khi có một tổng thống mới thì sẽ xuất hiện nhu cầu nhân sự cho các vị trí lãnh đạo cấp cao bên nhánh hành pháp. Tổng số các vị trí cần bổ nhiệm mới, cả về chính trị và chuyên môn, là khoảng 3000 người. Về cả lý thuyết và thực tiễn, lực lượng này có thể được lựa chọn từ đội ngũ quan chức của chính quyền tiền nhiệm. Tuy nhiên, do yếu tố chính trị, các nhà lãnh đạo mới thường thay thế một lượng lớn đội ngũ tiền nhiệm bằng các nhân sự đã từng phục vụ cho ê kíp tranh cử của mình hoặc thuộc về đảng chính trị mà họ đã từng dựa vào để thắng cử. Truyền thống này khiến cho các vị trí lãnh đạo trong hệ thống chính quyền luôn biến động. Cũng bởi vậy, các nhà lãnh đạo mới thường tìm đến các chuyên gia đang làm việc trong khu vực dân sự để lựa chọn nhân sự cho chính quyền của mình. Thực tế này diễn ra lặp đi lặp lại theo thời gian dẫn đến sự hình thành mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền và các tổ chức think tank - nơi luôn sẵn sàng cung cấp các chuyên gia chính sách chất lượng để làm việc cho chính quyền. Cũng bởi đặc điểm truyền thống này cho nên các think tank ở Hoa Kỳ vẫn được ví như một “chính quyền dự bị” - nơi mà các vị trí việc làm trong chính quyền luôn là cơ hội khẳng định uy tín của cả cá nhân và tổ chức đối với đội ngũ chuyên gia think tank

Thứ ba, các think tank có thể trở thành nơi tập hợp các chuyên gia, học giả, và bổ sung cho vai trò của các trường đại học. Một thách thức lớn với hệ thống trường đại học ở Hoa Kỳ là các học giả thường rất mạnh về năng lực nghiên cứu hàn lâm, vốn ít khả năng ứng dụng chính sách. Sở dĩ có thực tế này là bởi nghiên cứu của các học giả ở trường đại học thường đi sâu vào một khía cạnh hoặc vấn đề nào đó, khiến họ xa rời khỏi đời sống thực tiễn. Các nghiên cứu cũng thiên về lý thuyết, hướng đến mục đích xây dựng các mô hình lý thuyết để giải thích đời sống xã hội. Thế nhưng, trên thực tế, các mô hình lý thuyết đó lại rất ít hoặc rất khó được sử dụng để giải quyết các vấn đề nảy sinh hàng ngày. Điển hình cho thực tế này là các mô hình lý thuyết về chính sách đối ngoại - dù có thể rất hay và giá trị về tri thức nhưng lại hầu như không được sử dụng bởi các think tank trong việc xây dựng các đề xuất chính sách. Chính bởi vậy, think tank đã trở thành một địa chỉ cho các diễn đàn chính sách - nơi các chuyên gia và học giả cũng như công chúng có thể đến để trình bày và thảo luận các vấn đề chính sách trước các tình huống thực tế đang đòi hỏi hành động kịp thời của chính quyền

Kết nối công chúng số đông với lĩnh vực chính sách công, giáo dục họ về các vấn đề chính sách, khơi gợi và thúc đẩy ý thức tích cực và chủ động trong việc tham gia giải quyết các vấn đề công là vai trò tích cực thứ tư mà các think tank đóng góp cho xã hội Hoa Kỳ. Thông qua nhiều hình thức hoạt động hướng đến số đông, think tank giúp những người dân Hoa Kỳ bình thường nhất có thể hiểu biết về tình hình thế giới và trong nước, nhận thức được những vấn đề đang thu hút sự quan tâm của dư luận và chính quyền, đồng thời cũng có thể tham gia vào các thảo luận chính sách. Thông qua đó, think tank góp phần giúp người dân Hoa Kỳ nắm bắt được các chính sách mà chính phủ Hoa Kỳ đang theo đuổi, từ đó gây dựng sự ủng hộ chính trị của công chúng Hoa Kỳ, vốn rất đa dạng về mặt xã hội, cho các lựa chọn hành động và hình thức hành động của chính quyền, cả trong nước và quốc tế

Giảm bớt sự khác biệt về quan điểm chính sách giữa các quan chức chính quyền, giữa các học giả, giữa các đảng chính trị, thậm chí giữa các chính quyền của các quốc gia...là lợi ích thứ năm của các think tank. Để thực hiện được vai trò hóa giải sự khác biệt, xung đột về quan điểm, think tank có thể tổ chức các diễn đàn đối thoại hoặc trực tiếp tham gia các chương trình tập huấn quan chức hay nhân viên chính quyền. Chẳng hạn, tổ chức “The U.S. Institute of Peace” đã từng tham dự vào các cuộc thương lượng không chính thức cũng như tập huấn cho viên chức chính quyền Hoa Kỳ về các kỹ năng giải quyết xung đột kéo dài. Các think tank khác cũng tham vào các hình thức ngoại giao phòng ngừa, quản lý xung đột và tìm các giải pháp xử lý xung đột. Điển hình là từ cuối những năm 1980, Tổ chức “The Carnegie Endowment” đã tiến hành một chuỗi các cuộc gặp giữa các chính trị gia Nam Phi, doanh nhân, đại diện giới lao động, học giả, các nhà hoạt động xã hội, cũng như các nhà lập pháp. Các cuộc gặp này được tổ chức liên tục trong tám năm đã giúp tạo dựng sự hiểu biết và đồng thuận giữa các giới chức chính quyền và các lực lượng xã hội về tương lai của Nam Phi. Tương tự như vậy, CSIS đã triển khai nhiều dự án nhằm giúp giảm bớt sự khác biệt và chia rẽ giữa các nhóm sắc tộc, tôn giáo ở các quốc gia như Nam Tư hay Israel

Ảnh hưởng tiêu cực:

Thứ nhất là nguy cơ think tank bị chi phối bởi các nhà tài trợ. Hoa Kỳ đang chứng kiến mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt do sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các think tank. Hiện tại, Hoa Kỳ có gần 2000 think tank với quy mô tổ chức và lĩnh vực hoạt động khác nhau. Bản thân các think tank không phải là các doanh nghiệp cho nên họ phải thường xuyên vận động để tìm ra các nguồn kinh phí hoạt động. Các hình thức gây dựng ngân sách phổ biến gồm: vận động tài trợ, ký kết hợp đồng cung cấp dịch vụ hoặc gây quỹ. Để có thể giành được các khoản kinh phí dưới dạng quà tặng hoặc tài trợ, think tank buộc phải đề cao sự sáng tạo trong hoạt động và đẩy mạnh hơn nữa mức độ chuyên môn hóa. Thực tế này được thể hiện qua xu hướng thành lập các think tank gần đây nhưng chỉ tập trung hoạt động đối với một số lĩnh vực chính sách chuyên sâu nào đó thay vì quan tâm đến nhiều vấn đề như các think tank ra đời trước đây. Trước áp lực cạnh tranh, để có ngân sách hoạt động, các think tank buộc phải thỏa mãn các đơn hàng của nhà tài trợ cũng như phải cho họ thấy được những kết quả tác động trong thời gian sớm nhất. Tuy nhiên, đo lường và đánh giá được tác động và kết quả thực tế các hoạt động của think tank không phải là việc dễ dàng, nhất là trong bối cảnh họ luôn bị áp lực về thời gian. Sự phụ thuộc vào kinh phí tài trợ cũng đặt các think tank trước nguy cơ lớn là họ sẽ bị giảm nguồn ngân sách mỗi khi các nhà tài trợ gặp khó khăn, không thể tiếp tục các cam kết tài trợ. Do đó, thách thức về ngân sách là yếu tố hàng đầu đe dọa khả năng độc lập và khách quan của các think tank. Không thể không tính đến nguy cơ think tank bị biến thành công cụ gây ảnh hưởng đến chính quyền của những cá nhân hoặc nhóm quyền lực trong xã hội. Khi đó, thay vì là những tổ chức nghiên cứu khách quan và độc lập, think tank có thể trở thành phương tiện mưu lợi của những cá nhân hoặc nhóm vị kỷ.

Thứ hai là nguy cơ think tank bị ảnh hưởng và chi phối bởi chính trị đảng phái. Chia rẽ sâu sắc về tư tưởng và quan điểm chính trị là một đặc trưng nổi bật của xã hội Hoa Kỳ. Điều này ngày càng thể hiện rõ hơn qua các xung đột giữa các đảng chính trị có vai trò chi phối quá trình lập pháp của Quốc hội; hoặc sự xung đột giữa Quốc hội với Tổng thống. Về bản chất, sự chia rẽ, xung đột về chính trị bên trong chính quyền phản ánh sự xung đột giữa các truyền thống tư tưởng chính trị vốn có trong xã hội Hoa Kỳ. Thực tế này không chỉ tác động đến các chiến lược và định hướng chính sách của các đảng chính trị mà tất yếu cũng sẽ có ảnh hưởng đến các think tank. Bởi vậy, giữ được sự trung lập về chính trị sẽ là thách thức lớn đối với các think tank. Trên thực tế, đã có những think tank, chẳng hạn như Heritage Foundation, công khai đứng hẳn về phía quan điểm chính trị bảo thủ. Cũng bởi vậy, chuyên gia think tank sẽ ngày càng phải đối diện với khuynh hướng chính trị mà tổ chức của họ can dự hay ủng hộ. Việc đưa ra được các giải pháp chính sách khách quan và trung lập hoặc dựa trên sự dung hòa các quan điểm chính trị sẽ ngày càng khó khăn. Khi bị chi phối bởi các xu hướng chính trị, các think tank không còn giữ được bản chất vốn có của nó. Think tank có thể bị biến thành một công cụ cạnh tranh chính trị và lợi ích giữa các lực lượng chính trị khác nhau trong xã hội

Thứ ba là nguy cơ các think tank chỉ tìm cách phục vụ lợi ích của chính họ chứ không phải lợi ích công và toàn xã hội. Để có thể nhanh chóng nhận được các khoản kinh phí và gia tăng ảnh hưởng, think tank có thể “xào nấu” các ý tưởng chính sách cũ hoặc rao bán các giải pháp chính sách mang đậm màu sắc chính trị đảng phái thay vì đầu tư nghiên cứu để đề xuất ra được những chính sách mới. Thách thức này là hệ quả từ môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các think tank cũng như xu hướng bị ảnh hưởng bởi chính trị đảng phái trong những năm gần đây. Khi không còn bảo đảm được chất lượng của các nghiên cứu và phân tích chính sách thì các think tank sẽ tự đánh đồng mình với các tổ chức vận động thuần túy (yếu về chuyên môn) vốn luôn đông đảo trong lĩnh vực chính sách công ở Hoa Kỳ. Họ giống như “những bộ não được đem rao bán”

Một nguy cơ nữa là một số cơ quan chính quyền Hoa Kỳ ngày càng có biểu hiện lệ thuộc vào các think tank. Thay vì tự đưa ra lựa chọn chính sách, cơ quan chính quyền có thể thuê lại các think tank để làm việc này cho họ. Chẳng hạn, CSIS chính là think tank đã chuẩn bị bài phát biểu cho bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, Chuck Hagel tại Đối thoại Shangri-La 2013. Người ta đặt dấu hỏi là với bài phát biểu đó, liệu CSIS sẽ chỉ thuần túy đứng trên lập trường lợi ích của Hoa Kỳ, hay họ cũng có thể lợi dụng nó để phục vụ cho lợi ích của các đối tác của họ tại châu Á? Và trách nhiệm của các quan chức chính quyền ở đâu khi họ được hưởng lương từ nguồn thuế của dân chúng nhưng lại thuê các think tank thực hiện công việc chuyên môn cho họ?

Tóm lại, với tư cách là những “nhà máy sản xuất ý tưởng chính sách”, think tank là một chủ thể không thể thiếu trong đời sống chính trị và quy trình chính sách của Hoa Kỳ. Sự gia tăng cả về số lượng và hình thức hoạt động của think tank không chỉ cho thấy quyền lực của tri thức, mà còn gợi ra những tiềm năng đóng góp to lớn của các chủ thể ngoài nhà nước vào việc giải quyết các vấn đề công. Nhờ hệ thống think tank đông đảo, chính quyền Hoa Kỳ đã tận dụng được nguồn nhân lực và tri thức trong xã hội vào quá trình quản trị quốc gia. Có thể thấy, không gian tự do học thuật và thể chế chính trị phân quyền là những yếu tố thuận lợi căn bản để các think tank phát huy được vai trò tích cực của mình


TS Đoàn Trường Thụ

Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
 
Người trẻ châu Âu hào hứng với ý tưởng AI điều hành đất nước thay chính khách
Nếu thay thế các “ông nghị” bằng AI thì sẽ thế nào? Một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng hầu hết người châu Âu muốn thấy một số thành viên quốc hội của họ được thay thế bằng các thuật toán

Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Quản trị thay đổi của ĐH IE (Tây Ban Nha) đã làm khảo sát với 2.769 người từ 11 quốc gia cảm thấy thế nào về việc giảm số lượng nghị sĩ quốc gia ở quốc gia của họ và trao những ghế đó cho một AI có quyền truy cập vào dữ liệu của họ?

Kết quả cho thấy bất chấp những ưu điểm và nhược điểm của AI, 51% người châu Âu cho biết họ ủng hộ ý tưởng này

Theo Oscar Jonsson - Giám đốc Học thuật tại Trung tâm Quản trị Thay đổi của ĐH IE và là một trong những nhà nghiên cứu chính của báo cáo này nói rằng kết quả trên không bất ngờ vì "Có bao nhiêu người biết nghị sĩ của họ? Bao nhiêu người có mối quan hệ với nghị sĩ của họ và bao nhiêu người biết nghị sĩ của họ đang làm gì?". Ông nhận định thêm: “Đã có “sự suy giảm trong nhiều thập kỷ qua về niềm tin vào dân chủ như một hình thức quản trị. Nhận thức của mọi người là chính trị đang trở nên tồi tệ hơn và rõ ràng là các chính trị gia đang bị đổ lỗi, vì vậy tôi nghĩ, báo cáo nắm bắt được những người theo chủ nghĩa nhiệt thành nói chung”


Một con phố tại Thủ đô Stockhom của Thụy Điển

Nghiên cứu cho thấy ý tưởng này đặc biệt “khả thi” ở một số nước với tỉ lệ ủng hộ cao như Tây Ban Nha là 66%, ở Ý là 59% và Estonia là 56%. Tuy nhiên, không phải nước nào cũng đồng tình với ý tưởng này vì…dù sao cũng chỉ là cái máy, rất dễ bị tấn công hoặc hoạt động theo những cách mà con người không muốn. Ở Anh, 69% người được khảo sát phản đối ý tưởng này, trong khi 56% phản đối ở Hà Lan và 54% ở Đức

Bên ngoài châu Âu, khoảng 75% người được khảo sát ở Trung Quốc ủng hộ ý tưởng thay thế các nghị sĩ bằng AI, trong khi 60% người Mỹ phản đối. Các ý kiến cũng thay đổi đáng kể theo từng thế hệ, với những người trẻ tuổi thường cởi mở hơn đáng kể với ý tưởng. Hơn 60% người châu Âu ở độ tuổi 25 - 34 và 56% trong số những người ở độ tuổi 34 - 44 ủng hộ ý tưởng này, trong khi phần lớn những người được hỏi trên 55 tuổi không xem đó là một ý tưởng hay
 
Lần đầu tiên xây dựng dự thảo quy định chi tiết việc lấn biển để phát triển kinh tế xã hội
Bộ Tài nguyên & Môi trường đang dự thảo Nghị định về hoạt động lấn biển phục vụ mục đích phát triển kinh tế-xã hội. Các chuyên gia cho rằng, lấn biển là xu hướng không thể tránh khỏi, nhưng gây ra nhiều tác động đến môi trường biển, cần quy định chặt chẽ

la-n-da-u-tie-n-xa-y-du-ng-du-6035-2434-1623298907.png

Lần đầu tiên xây dựng dự thảo quy định chi tiết việc lấn biển để phát triển kinh tế xã hội

Theo ông Phan Tuấn Hùng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Tài nguyên & Môi trường, đây là lần đầu Việt Nam xây dựng một nghị định quy định chi tiết các vấn đề liên quan hoạt động lấn biển phục vụ phát triển kinh tế-xã hội (không bao gồm hoạt động lấn biển phục vụ an ninh-quốc phòng), áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan hoạt động lấn biển trong vùng biển Việt Nam. Nghị định hướng đến quy định chi tiết các nguyên tắc, yêu cầu đối với hoạt động lấn biển cũng như quy trình, trách nhiệm các bên liên quan

TS Michael Parsons, cố vấn của Bộ Tài nguyên & Môi trường, nhận định, việc lấn biển mang lại lợi ích như tạo thêm diện tích đất để phát triển nhưng cũng gây ra nhiều vấn đề như mất diện tích đáy biển, mất môi trường sống ở biển, ảnh hưởng hệ sinh thái biển cũng như tác động thay đổi dòng chảy, ô nhiễm môi trường từ quá trình lấn biển. Ngoài ra, nhiều vấn đề kỹ thuật phát sinh trong quá trình lấn biển. Trên thực tế có những sân bay bị chìm dần sau khi lấn biển, như sân bay quốc tế Kansai đặt tại vịnh Osaka của Nhật Bản chìm 11,5 m kể từ năm 1994

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên & Môi trường, cho rằng lấn biển sẽ là xu thế tất yếu ở Việt Nam do nước ta đất chật, người đông lại có trên 3.260km đường bờ biển, có lợi thế lớn để mở rộng không gian phát triển ra biển và đại dương. Tuy nhiên, ông nhận định việc lấn biển, cải tạo các bãi triều với mức độ nhận thức mới về môi trường được công nhận là một cuộc khủng hoảng đối với hệ sinh thái ven biển và cộng đồng địa phương. Lấn biển gây ra những tác động tiêu cực đáng kể đến môi trường sống ven biển, dịch vụ hệ sinh thái biển và đại dương

Theo ông Thọ, không gian ven biển là một nguồn tài nguyên có hạn, vì vậy, khi lấn biển, các quyết định về thiết kế và vị trí của chúng cần phải được thực hiện cẩn thận. Ngoài ra, cần có quy định hướng dẫn đánh giá những tác động thực tế và tiềm năng mà việc lấn biển có thể gây ra đối với môi trường ven biển như tác động bất lợi thay đổi hình dạng đường bờ, ảnh hưởng đến thủy động học, chuyển động của nước, quá trình vận chuyển bùn cát, dòng chảy thủy triều và năng lượng sóng, làm mất môi trường sống và năng suất sinh học, ảnh hưởng đến sinh thái bản địa và hệ sinh thái, như quần xã sinh vật đáy, quần thể chim…

Một vấn đề khác là các dự án lấn biển làm du lịch, khu đô thị hay hạ tầng có thể làm các cộng đồng địa phương lân cận mất đi nền tảng kinh tế, các làng truyền thống có lịch sử và văn hóa lâu đời có nguy cơ trở thành các khu vực bị ô nhiễm, làm nảy sinh các vấn đề xã hội, ông Thọ nhận định

Theo ông, phải xem xét vấn đề quyền tiếp cận công cộng của người dân. Ngoài ra, cần tránh các khu vực ảnh hưởng đến di tích văn hóa, lịch sử, truyền thống, danh lam thắng cảnh và những nơi thuộc khu vực bảo vệ, bảo tồn cũng như tránh xói mòn, bồi tụ và các hiểm họa tự nhiên khác
 
8 đề xuất mới của Viettel với Chính phủ

photo1648106960105-16481069601951289345859.jpg

Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc với doanh nghiệp nhà nước (DNNN) về "Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội" sáng 24/3, Đại tá Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) đã đưa ra 8 kiến nghị, đề xuất để DNNN tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò trong phát triển kinh tế - xã hội

Thứ nhất, đề xuất Chính phủ giao nhiệm vụ cụ thể cho các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước thực hiện một số dự án/nhiệm vụ quan trọng của nền kinh tế

Thời gian qua, một số doanh nghiệp nhà nước đã được giao nhiệm vụ nhưng chưa cụ thể; chưa phân công rõ vai trò của từng doanh nghiệp nhà nước; năng lực của doanh nghiệp nhà nước bị phân tán

Trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng đã đặt ra mục tiêu: Đến năm 2025 Việt Nam trở thành một nước có công nghiệp theo hướng hiện đại, đến 2030 trở thành nước có công nghiệp hiện đại. Chúng ta không thể có một nền công nghiệp hiện đại nếu chỉ đi mua và phụ thuộc vào nước ngoài, mà phải tự chủ trong việc nghiên cứu, thiết kế, làm chủ công nghệ, tạo ra những sản phẩm "Make in Việt Nam". Do đó, Chính phủ cần giao những nhiệm vụ này cho các doanh nghiệp nhà nước

Viettel đề xuất Chính phủ mạnh dạn giao cho các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước thực hiện một số dự án/nhiệm vụ quan trọng, cụ thể thuộc các lĩnh vực mới, lĩnh vực khó, mang tính chất mở đường, dẫn dắt, liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia… Các nhiệm vụ này nếu được triển khai thành công sẽ tạo ra phát triển đột phá cho nền kinh tế

Thời gian vừa qua, Viettel cũng đã nhận được những nhiệm vụ rất quan trọng từ Quân uỷ Trung ương, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc phòng và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thời gian tới, Viettel tiếp tục sẵn sàng nhận, triển khai bất cứ nhiệm vụ gì được Chính phủ giao

Thứ hai, đề xuất Chính phủ đẩy mạnh phân cấp, tăng tính chủ động trong công tác đầu tư đối với các DNNN

Để doanh nghiệp tăng trưởng, mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao hiệu quả SXKD thì vấn đề đầu tư phát triển có ý nghĩa sống còn; doanh nghiệp có đầu tư thì mới có phát triển

"Tôi biểu thị sự nhất trí cao với ý kiến của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, đó là: Coi DNNN có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Do vậy, DNNN cần được phân cấp, trao quyền chủ động cao hơn trong công tác đầu tư, mua sắm; từ đó mới có thể linh hoạt, chớp thời cơ, phản ứng nhanh với thị trường, cạnh tranh được với các doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài" - Đại tá Tào Đức Thắng nói

Hiện nay, việc mua sắm cho các dự án đầu tư kinh doanh của DNNN có khi phải mất hàng năm trời do việc thẩm định dự án mất nhiều thời gian và sau khi có quyết định đầu tư mới được đấu thầu. Trong khi đó, doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ 1 tháng là có thể ký được hợp đồng

Thứ ba, đề xuất Chính phủ đẩy mạnh phân cấp cho các DNNN được chủ động thành lập, tổ chức, sắp xếp lại các đơn vị nội bộ

Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, nhất là các công nghệ 4.0, tạo ra những mô hình kinh doanh mới, sản phẩm dịch vụ mới, đòi hỏi các DNNN phải thích ứng nhanh với những thay đổi của thị trường. Do đó, Chính phủ cần giao cho các DNNN chủ động tổ chức, sắp xếp lại các đơn vị nội bộ để triển khai các hoạt động SXKD theo mô hình mới

Thứ tư, đề xuất Chính phủ quy định đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN theo phương thức đánh giá tổng thể, không đánh giá riêng từng dự án nhằm tạo động lực trong hoạt động SXKD

Việc yêu cầu đánh giá hiệu quả của từng dự án không còn phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay, khi các DNNN đều triển khai nhiều dự án, nhiều lĩnh vực hoạt động. Thực tế hoạt động SXKD của doanh nghiệp chịu tác động của rất nhiều yếu tố và luôn có rủi ro nhất định, không thể "trăm trận trăm thắng". Điều này dẫn đến các DNNN không dám đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực đổi mới sáng tạo, không đón đầu được các cơ hội

Do đó, Viettel đề xuất Chính phủ quy định việc đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN theo phương thức đánh giá tổng thể, không đánh giá riêng từng dự án. Nội dung này cần được quy định rõ trong các văn bản pháp lý liên quan để đảm bảo tính nhất quán khi đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng như khi tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát doanh nghiệp

Thứ năm, đề xuất Chính phủ nhanh chóng ban hành hướng dẫn cụ thể để DNNN thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm

Việc thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm để đầu tư vào các công nghệ mới, các Start-Up, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, từ đó, thúc đẩy đổi mới công nghệ, mô hình kinh doanh mới, phát triển liên kết, tạo ra hệ sinh thái để các doanh nghiệp cùng phát triển. Mặt khác, điều này cũng sẽ khắc phục được tình trạng các Start-Up ở Việt Nam hiện nay đang rất thiếu vốn và chủ yếu trông đợi từ các Quỹ đầu tư nước ngoài và bị các Quỹ đầu tư nước ngoài thâu tóm

Tính chất của hoạt động đầu tư mạo hiểm là có độ rủi ro cao, tỷ lệ thành công thấp nhưng nếu thành công sẽ có lợi nhuận lớn, 10 dự án đầu tư có thể chỉ thành công 1 đến 2 dự án nhưng sẽ bù đắp được cho toàn bộ chi phí bỏ ra. Vì vậy, Viettel đề xuất Chính phủ có hướng dẫn cụ thể về việc thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm để các DNNN triển khai thực hiện

Thứ sáu, về vấn đề tăng quy mô vốn, tài sản cho DNNN

Để nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt động, vươn ra thị trường quốc tế thì DNNN rất cần tăng quy mô vốn và tài sản. Ngoài việc bổ sung vốn điều lệ từ Quỹ đầu tư phát triển, đề nghị Chính phủ xem xét bổ sung vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận còn lại nộp ngân sách nhà nước

Viettel đã được phê duyệt vốn điều lệ đến hết 2020 là 300.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến hết 2021, vốn điều lệ của Viettel mới đạt 160.000 tỷ đồng. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép bổ sung để đảm bảo đủ vốn điều lệ 300.000 tỷ đồng

Thứ bảy, đề xuất Chính phủ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đầu tư nước ngoài

Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, một trong những đột phá chiến lược trong giai đoạn 2021 - 2030 đó là nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế. Công tác đầu tư nước ngoài sẽ góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, giao lưu văn hoá và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ năng động, có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế

Do đó, Viettel đề xuất Chính phủ, các Bộ ngành kiên định ủng hộ, hỗ trợ hoạt động đầu tư nước ngoài của Viettel; cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách, quan điểm thúc đẩy, quản lý, đánh giá, tăng cường xúc tiến, đàm phán các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước mà Viettel đã đầu tư, đồng thời hướng dẫn Viettel giải quyết hiệu quả các khó khăn, vướng mắc, rủi ro gặp phải trong quá trình đầu tư ra nước ngoài

Thứ tám, về cơ chế đặc thù cho các DNNN

Hiện nay, các DNNN rất đa dạng về quy mô, tính chất và lĩnh vực hoạt động, do đó các cơ chế đặc thù cũng cần phải thiết kế cho từng nhóm doanh nghiệp hoặc thậm chí đến từng doanh nghiệp. Thời gian vừa qua, những cơ chế đặc thù đối với Viettel cũng đã được sử dụng một cách rất hiệu quả

Do đó, Viettel đề xuất Thủ tướng chỉ đạo các cơ quan, Bộ/ngành của Chính phủ trực tiếp làm việc với các DNNN để xây dựng những cơ chế đặc thù phù hợp với từng doanh nghiệp, qua đó thực tiễn được phản ánh đầy đủ vào cơ chế chính sách, giúp các DNNN thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quan trọng mà Đảng, Nhà nước giao trong thời gian tới

"Chúng tôi tin tưởng rằng, sau Hội nghị này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ đưa ra những quyết sách cụ thể, kịp thời để DNNN tiếp tục đóng góp nhiều hơn nữa trong việc thực thi chiến lược quốc gia; trở thành cơ sở vật chất, cơ sở chính trị quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới" - Đại tá Tào Đức Thắng nhấn mạnh
 
Đề xuất đấu thầu cho thuê lại doanh nghiệp Nhà nước trong 5-10 năm

Đây là một trong những giải pháp được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước và các dự án, tài sản

Trong báo cáo kết quả tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2016-2020 và đề xuất định hướng sắp xếp, nâng cao hiệu quả, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra một loạt giải pháp áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nhóm doanh nghiệp này

Theo đó, mục tiêu của cổ phần hóa, thoái vốn không phải là rút vốn Nhà nước ra khỏi doanh nghiệp, thu hẹp phạm vi, quy mô của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, mà đây là hình thức tái cơ cấu lại danh mục đầu tư, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và giá trị đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp

Cho thuê lại tài sản, dự án, doanh nghiệp Nhà nước

Hiện nay, chỉ còn 94 doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn (không tính các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh và nông lâm nghiệp). Các doanh nghiệp này đang nắm giữ 90% tổng tài sản, 88% tổng doanh thu và 86% lợi nhuận trước thuế của toàn bộ nhóm doanh nghiệp Nhà nước. Do đó, cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích và công cụ quản lý riêng đối với nhóm doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn này

Một trong những giải pháp được cơ quan này đưa ra là đề xuất nghiên cứu hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện quản lý, vận hành doanh nghiệp Nhà nước hoặc một phần tài sản, dự án của doanh nghiệp Nhà nước

Trong đó, hợp đồng đấu thầu cho thuê lại sẽ được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định, có thể từ 5 năm đến 10 năm. Hết thời gian trên, Nhà nước sẽ thu hồi lại doanh nghiệp hoặc tài sản, dự án đã cho thuê để có phương án quản lý, sử dụng tiếp theo. Nguồn thu được từ việc cho thuê kể trên được sử dụng cho các mục đích đầu tư phát triển hoặc an sinh xã hội khác


Bên cạnh đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp Nhà nước cần tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế khác, tạo ra các chuỗi liên kết, cung ứng trong nước, giảm lệ thuộc vào nước ngoài

Cơ quan quản lý đầu tư cho rằng không nên áp đặt mệnh lệnh hành chính đối với cổ phần hóa, thoái vốn, thay vào đó, nên thực hiện theo nguyên tắc và tín hiệu thị trường, nhưng đảm bảo công khai, minh bạch hiệu quả và thu hồi tối đa vốn cho Nhà nước

Trong quá trình thoái vốn, các doanh nghiệp đã cổ phần hóa phải thực hiện nghiêm quy định về lưu ký, giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đồng thời, xử lý nghiêm các doanh nghiệp cố tình không thực hiện niêm yết, giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán theo quy định

Với phần vốn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất nộp về ngân sách và quản lý tập trung, sử dụng để bổ sung vốn điều lệ cho một số doanh nghiệp Nhà nước then chốt quốc gia và đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, địa phương. Trong đó, đảm bảo đưa vào nguồn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021-2025 là 248.000 tỷ đồng

Nhận diện điểm nghẽn của doanh nghiệp Nhà nước

Để phát huy nguồn lực lớn mà nhóm doanh nghiệp Nhà nước đang nắm giữ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đề xuất đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, chủ động và vận hành linh hoạt như doanh nghiệp tư nhân

Trong đó, tách chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý doanh nghiệp. Nhà nước quản lý theo mục tiêu, còn doanh nghiệp được chủ động, tự quyết trong điều hành sản xuất kinh doanh, nắm bắt các cơ hội của thị trường

Đổi mới công tác quản lý cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cao, có thể xem xét thí điểm sử dụng CEO nước ngoài tại một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty; thực hiện cử thành viên hội đồng thành viên độc lập là các chuyên gia có trình độ, năng lực về tài chính, quản trị… tham gia quản lý, điều hành

Ngoài ra, cho phép doanh nghiệp được giữ lại một phần tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn để tái đầu tư các dự án đầu tư quan trọng, hiệu quả

ttgphatbieu_1648094238952734345028.jpeg

Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo tại hội nghị với các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra ngày 24/3



Chỉ đạo tạo hội nghị với các doanh nghiệp Nhà nước hôm nay, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng doanh nghiệp Nhà nước là nhóm giữ vị trí then chốt và là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế Nhà nước, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

Tuy nhiên, người đứng đầu Chính phủ cũng cho biết thời gian qua, khu vực doanh nghiệp này vẫn chưa thể hiện tốt vị thế của mình, chưa phát huy được lợi thế về nắm giữ nguồn lực lớn trong xã hội

Để thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước phát triển bền vững, phát huy được thế mạnh, tiềm năng, thực sự là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế Nhà nước, Thủ tướng nhấn mạnh cần nhận diện những điểm nghẽn trong cơ chế, chính sách đối với khu vực doanh nghiệp này

Bên cạnh đó, cần nhìn ra những vướng mắc, hạn chế trong chính doanh nghiệp để từ đó đưa ra các định hướng, giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của nhóm doanh nghiệp Nhà nước

Để các cơ quan quản lý có phương hướng giải quyết, Thủ tướng đặt vấn đề vì sao doanh nghiệp Nhà nước chưa thể hiện được vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, thu hút, thúc đẩy các thành phần khác phát triển; tại sao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trong nhóm này còn thấp so với nguồn lực đang nắm giữ; tại sao công tác cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước lại không đạt kế hoạch; xác định giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế quyền thuê đất, giá trị thương hiệu của doanh nghiệp đã đầy đủ, chặt chẽ hay chưa…

Thủ tướng cũng đặt vấn đề về công tác quản trị doanh nghiệp Nhà nước chậm được đổi mới, chưa theo kịp với quy mô tài sản quản lý. Thực tế cho thấy cùng một chủ trương, cơ chế, chính sách nhưng có nơi thực hiện tốt, có nơi chậm trễ, có nơi làm không được, có nơi đùn đẩy trách nhiệm...

"Nguyên nhân là gì, có phải do chính người đứng đầu tổ chức đó hay không. Hay do cơ chế, chính sách hay sự phối hợp giữa các bộ, các ngành hay do chỉ đạo. Những vấn đề yếu kém, vướng mắc chúng ta phải cố gắng tìm ra nguyên nhân để có giải pháp thích hợp", lãnh đạo Chính phủ nhấn mạnh

Quang Thắng
 
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ gặp mặt các lãnh đạo của Prudential
Ngày 29-6-2022 tại thủ đô London, trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Vương quốc Anh, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Đoàn đại biểu cấp cao của Việt Nam đã có cuộc gặp gỡ với tập đoàn Prudential nhằm trao đổi về các vấn đề ưu tiên của Chính phủ Việt Nam, và đề cập vai trò của các tập đoàn bảo hiểm như Prudential trong việc hỗ trợ tăng cường các vấn đề tài chính toàn diện cho người dân Việt Nam. Cuộc gặp gỡ ngoại giao này nhằm củng cố mối quan hệ và góp phần tái khẳng định cam kết của Prudential tại Việt Nam

Buổi gặp gỡ đã mở ra cơ hội giúp Prudential có thể xây dựng mối quan hệ bền vững với Chính phủ Việt Nam. Tập đoàn Prudential cũng đưa ra một số cập nhật ngắn gọn về chiến lược xoay trục tập trung phát triển tại thị trường châu Á và khẳng định sự cam kết của tập đoàn tại Việt Nam. Cuộc họp có sự tham dự của các quan chức cấp cao khác của Chính phủ Việt Nam, đại điện cấp cao của tập đoàn Prudential trên toàn cầu và tại Việt Nam

Prudential-UK-trip-1.jpg

Bà Shriti Vadera – Chủ tịch Tập đoàn bảo hiểm Prudential cùng với ông Mark FitzPatrick – Tổng Giám đốc lâm thời của Prudendial và ông Phương Tiến Minh – Tổng Giám đốc Prudential Việt Nam đã chia sẻ về cam kết của doanh nghiệp trong việc hỗ trợ nền kinh tế Việt Nam với ba sáng kiến quan trọng: Đầu tư xanh, Công nghệ bảo hiểm và Định hướng phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế

Prudential nỗ lực xây dựng và củng cố mối quan hệ với chính phủ Việt Nam

Là doanh nghiệp Anh Quốc và có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, Prudential từ lâu đã luôn ủng hộ mạnh mẽ mối quan hệ đối tác chiến lược Anh – Việt mà 2023 sẽ là năm đánh dấu cột mốc 50 năm kỷ niệm quan hệ ngoại giao giữa 2 quốc gia. Tốc độ phát triển vượt bậc của Việt Nam như một chỉ báo tích cực để Prudential thực hiện một cuộc chuyển đổi chiến lược và tập trung hoàn toàn vào các thị trường đang tăng trưởng tại châu Á và châu Phi. Prudential là công ty bảo hiểm nước ngoài đầu tiên thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam vào năm 1999. Cho đến nay, doanh nghiệp đã phục vụ hơn 1,9 triệu khách hàng Việt Nam. Sau nhiều năm hoạt động, Việt Nam hiện đã trở thành một thị trường vô cùng quan trọng đối với Prudential


Prudential-UK-trip-2.jpg

Chúc mừng những thành công của Prudential trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, nhiều quỹ trọng điểm, các tập đoàn kinh doanh bảo hiểm là những khách hàng quan trọng của Chính phủ trong lĩnh vực trái phiếu chính phủ. Nguồn ảnh: TTXVN
Theo Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, để thúc đẩy lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ngày càng phát triển hơn nữa, vừa qua, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) với tỷ lệ tán thành rất cao. Đây là luật rất tiến bộ, chất lượng tốt, trong đó, đã dừng trích Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm để giảm gánh nặng cho cả doanh nghiệp và người tham gia bảo hiểm. Khi luật có hiệu lực thi hành, hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kể cả nhân thọ và phi nhân thọ ở Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ, Chủ tịch Quốc hội cho biết

Prudential-UK-trip-3.jpg

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ mong muốn Tập đoàn Prudential tiếp tục đầu tư, kinh doanh thành công tại Việt Nam và làm tốt trách nhiệm xã hội; khẳng định Chính phủ, Quốc hội Việt Nam sẵn sàng xem xét, giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp tại Việt Nam, trong đó có doanh nghiệp đến từ Anh nói chung và Tập đoàn Prudental nói riêng

Những cập nhật từ Prudential về chiến lược xoay trục sang châu Á cùng cam kết lâu dài tại thị trường Việt Nam

Sau hai năm đại dịch Covid-19, Prudential đã tập trung xây dựng doanh nghiệp có khả năng phục hồi và thích ứng tốt trong hoàn cảnh dịch bệnh để cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Các doanh nghiệp bảo hiểm như Prudential đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển và mang đến các giải pháp bảo hiểm sáng tạo kết hợp giữa bảo vệ và tích lũy, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng Việt, đồng thời củng cố và phát triển sâu hơn về thị trường vốn của Việt Nam cũng như tận dụng công nghệ mới để đáp ứng các nhu cầu tài chính toàn diện cho người dân Việt Nam. Bà Shriti Vadera, Chủ tịch Tập đoàn Prudential, cho biết: “Thế giới vẫn đang đối mặt với những thách thức về kinh tế, nhưng chúng tôi rất lạc quan vào tiềm năng phát triển của năm nay, điển hình như nền kinh tế Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng mạnh mẽ 5% trong quý đầu tiên của năm 2022”

Bày tỏ sự vui mừng khi Prudential Việt Nam trở thành một trong những thị trường trọng điểm của Tập đoàn cùng với sự ủng hộ từ Chính phủ, ông Phương Tiến Minh – Tổng Giám đốc Prudential Việt Nam chia sẻ bên lề sự kiện, Prudential Việt Nam đặt mục tiêu mang đến các giải pháp bảo vệ tài chính cho 3,5 triệu khách hàng tại Việt Nam vào năm 2025. Song hành phát triển hoạt động kinh doanh, Prudential Việt Nam sẽ đồng hành cùng chính phủ giải quyết những thách thức ở phạm vi quốc gia cũng như thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam”

Prudential thể hiện cam kết hợp tác cùng Chính phủ hỗ trợ nền kinh tế Việt Nam với ba sáng kiến quan trọng: Đầu tư xanh, Công nghệ bảo hiểm và Định hướng phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế

Đầu tư xanh: Song hành với cam kết của chính phủ Việt Nam trong mục tiêu không phát thải nhà kính – Net-Zero vào năm 2050, Prudential đã và đang tập trung thực hiện quá trình chuyển đổi toàn diện, đặc biệt quan tâm đến hệ thống năng lượng của Việt Nam. Là một nhà đầu tư quan trọng trên thị trường vốn nội địa của Việt Nam, Prudential có một vị thế chiến lược để vận động trong lĩnh vực đầu tư xanh. Nhằm hỗ trợ tài chính sâu hơn trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, phát triển xã hội và trái phiếu xanh tại Việt Nam, những bước quan trọng tiếp theo đòi hỏi sự tăng cường can thiệp của các cơ quan đánh giá và mở rộng phạm vi bao phủ. Từ đó, Việt Nam sẽ tiến gần hơn đến mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net-zero) và trở thành quốc gia dẫn đầu khu vực về nền kinh tế xanh

Công nghệ bảo hiểm: Là công ty bảo hiểm hàng đầu trên thị trường, Prudential tận dụng chuyển đổi số như một yếu tố thúc đẩy việc cung cấp cho khách hàng các sản phẩm, mô hình phân phối và dịch vụ sáng tạo. Với ứng dụng Pulse, một nền tảng chăm sóc cho sức khỏe và tinh thần của Prudential, đã cho thấy công nghệ và bảo hiểm là sự kết hợp hoàn hảo như thế nào trong việc cung cấp các dịch vụ mới và sáng tạo cho công chúng. Mặc dù Insur-tech cho bảo hiểm nhân thọ khá mới mẻ, thông qua sự hợp tác giữa các cơ quan và các lĩnh vực liên quan có thể mang lại những giải pháp mới có lợi cho người dân Việt Nam

Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế: Prudential thể hiện cam kết với Việt Nam – một trong những thị trường chiến lược của Prudential tại châu Á. Prudential có kinh nghiệm phong phú trong việc điều hành các công ty quản lý quỹ và bảo hiểm nhân thọ tại các thị trường mới nổi lẫn các thị trường đã phát triển với các khuôn khổ chính sách đa dạng. Qua đó, Prudential có thể linh hoạt khai thác những kiến thức quý báu của mình để chia sẻ cũng như tư vấn cho các cơ quan chính phủ và các bên liên quan trong quá trình phát triển chính sách
 
Phát triển liên kết vùng Đông Nam Bộ cần phải có “nhạc trưởng”
Kết luận và chỉ đạo tại hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 53 và Kết luận 27 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, phải có “nhạc trưởng” cho liên kết vùng, phù hợp với điều kiện, thể chế hiện nay

94ef6a6d5337178541555f7f0d599793.jpg

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo tại hội nghị

Nói đi đôi với làm


Như đã đưa tin ngày 9/7, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Thành ủy - UBND TP. Hồ Chí Minh, Văn phòng Chính phủ tổ chức hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 53 và Kết luận 27 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 27-KL/TW ngày 2/8/2012 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW

Tại hội nghị, PGS.TS Trần Hoàng Ngân - Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh, dẫn chứng một số chỉ tiêu về kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết chưa đạt như mong đợi; tăng trưởng kinh tế của vùng có xu hướng giảm dần. Giai đoạn 2011 - 2015 tăng trưởng 6,87%, nhưng đến giai đoạn 2016 - 2020 chỉ còn 5,5%. Trong khi mục tiêu định hướng ở giai đoạn này là 9 - 10%. Đóng góp thu ngân sách từ 54% (giai đoạn 2006 - 2010), hiện nay giảm còn 46%, không đạt mục tiêu đề ra là đóng góp 55 - 60%... Ngoài ra, GRDP bình quân đầu người của vùng cũng không đạt mục tiêu đề ra là gấp 2 lần

PGS.TS Trần Hoàng Ngân - Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh nhìn nhận, việc triển khai Nghị quyết 53 và Kết luận 27 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 vẫn còn nhiều nút thắt về thể chế, kết cấu hạ tầng và nguồn lực thực hiện”

Kết luận hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, tinh thần hội nghị là đánh giá trúng và đúng tình hình, kết quả thực hiện Nghị quyết 53 và Kết luận 27. Đồng thời phân tích sâu, hội nghị chỉ ra những nguyên nhân tồn tại để xác định quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045

Theo Thủ tướng Chính phủ, việc tổ chức hội nghị và tổng kết Nghị quyết 53 và Kết luận 27 của Bộ Chính trị theo tinh thần “nói đi đôi với làm, nói được phải làm được”, để mang lại hiệu quả thật sự

Thủ tướng Chính phủ đánh giá, qua 15 năm thực hiện Nghị quyết 53 và Kết luận 27 của Bộ Chính trị có hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực, từ đó góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân

Về định hướng trong thời gian tới, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, để tạo ra động lực, không gian phát triển mới cho vùng, cần phải tiếp tục thực hiện 3 đột phá chiến lược. Đó là đột phá về hạ tầng chiến lược, bao gồm hạ tầng giao thông, hạ tầng số…; tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo thị trường lao động đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng; xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách đột phá, huy động mọi nguồn lực

Đồng thời, lưu ý cách thức tổ chức thực hiện liên kết cần chặt chẽ, hiệu quả hơn trong vùng, theo Thủ tướng Chính phủ là phải có “nhạc trưởng” cho liên kết vùng phù hợp với điều kiện, thể chế hiện nay. Cùng với đó là việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; nâng cao tính tự lực tự cường để vừa huy động sức mạnh tổng lực, vừa phát huy được sức mạnh của mỗi cơ quan đơn vị, địa phương trong vùng

Các bộ, ngành chủ động cùng các tỉnh, thành trong vùng tích cực tháo gỡ, cùng xử lý các vấn đề vướng mắc, khó khăn của địa phương, doanh nghiệp một cách thực chất, hiệu quả hơn. Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu, không để các địa phương “chạy lòng vòng, chạy lên chạy xuống mãi” vẫn không giải quyết được công việc

eac5a4041d544ecc425545938487cc35.jpg

Chủ tịch UBND.TP. Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi phát biểu tại hội nghị

Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu, phải có cơ chế huy động nguồn lực hợp tác công tư, lấy đầu tư công dẫn dắt và kích hoạt mọi nguồn lực của xã hội; phát triển hài hòa giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, môi trường, an sinh xã hội và đời sống người dân; giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng để góp phần vào việc phát triển, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tích cực chủ động hội nhập sâu rộng với quốc tế thực chất, hiệu quả

Cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực


Để đạt được các mục tiêu đề ra trong phát triển vùng, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh cần tập trung vào động lực thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững kinh tế vùng; tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; xây dựng quy hoạch và đẩy mạnh liên kết vùng; đồng thời tập trung phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Thủ tướng nhấn mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực phát triển nhanh, bền vững và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

“TP. Hồ Chí Minh cũng như vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cần có cơ chế đặc thù, vượt trội để tăng thêm nguồn lực, điều kiện để làm tốt vai trò đầu tàu đối với nền kinh tế của cả nước” - Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi nói

Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương cần chú trọng phát triển văn hoá - xã hội, bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần người dân; phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội; thúc đẩy các hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế

Cùng với đó, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; kết hợp với học tập làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh và phòng chống tham nhũng, tiêu cực

Đồng thời tập trung giải ngân vốn cho các chương trình phục hồi kinh tế, đầu tư công và chương trình 3 mục tiêu; giải ngân vốn đầu tư đường vành đai 3 và chuẩn bị quy hoạch đường vành đai 4; đẩy nhanh công tác quy hoạch; chủ động ứng phó với các vấn đề đột xuất, bất ngờ có thể xảy ra...
 
Vương Hỗ Ninh
Chiến lược gia bên cạnh 3 thế hệ Tổng bí thư Trung Quốc

Tương lai của ông Vương Hỗ Ninh, người được giới quan sát quốc tế ví như “chiến lược gia” cho đảng Cộng sản Trung Quốc trong hơn 30 năm vừa qua, được đặc biệt chú ý tại đại hội lần thứ 20 khai mạc ngày mai (16/10)

Mô hình quân sư

Nét thú vị trong văn hóa chính trị Trung Hoa từ cổ chí kim là mô hình quân sư (chiến lược gia) bên cạnh thủ lĩnh chính trị. Điển hình như những cặp bài trùng mang tính biểu trưng trong tiểu thuyết Tam Quốc như Khổng Minh bên cạnh Lưu Bị, Chu Du và Lỗ Túc bên cạnh Tôn Quyền, Tuân Úc, Quách Gia, Trình Dục... bên cạnh Tào Tháo

Giữa nhà lãnh đạo và các quân sư có sự phân định vai trò rõ ràng: Thủ lĩnh chính trị đề ra tư tưởng và tầm nhìn lãnh đạo, tập hợp sự ủng hộ, và tìm người tài để hiện thực hóa tầm nhìn đó. Trong khi đó, mọi ý tưởng, tính toán bước đi và hành động cụ thể thường lại xuất phát từ các quân sư. Thủ lĩnh, hay lãnh đạo chính trị, chỉ chính danh hóa các ý tưởng đó thông qua việc ban hành quyết định cụ thể

vuong-ho-ninh-1-746.jpg

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Thủ tướng Lý Khắc Cường và ông Vương Hỗ Ninh
Có thể thấy, quân sư hay chiến lược gia, chính là "bộ não" cung cấp ý tưởng cho thủ lĩnh chính trị. Ngược lại, lãnh đạo chính trị là bệ đỡ không thể thiếu để thực hiện ý tưởng hành động của quân sư

Sự tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau, và không giẫm chân lên nhau giữa hai vai trò chính là cơ sở cho sự thành công. Bất cứ khi nào thủ lĩnh chính trị làm thay việc của quân sư thì thất bại là điều thường thấy, điển hình như thất bại của Viên Thiệu trước Tào Tháo, hay đại bại của Lưu Bị trước Đông Ngô sau khi bỏ qua khuyên can của các quân sư. Những rối loạn chính trị - xã hội ở Trung Quốc thời cách mạng văn hóa cũng gắn với sự lấn át của lãnh đạo chính trị, thiếu vắng hình bóng chiến lược gia nổi bật

Vương Hỗ Ninh được giới quan sát quốc tế mệnh danh là chiến lược gia bên cạnh 3 thế hệ Tổng bí thư gần đây của Trung Quốc. Ông nổi lên từ năm 1986, khi đang là một giáo sư đại học, 31 tuổi, với bài viết dài 7 trang nêu quan điểm về chiến lược phát triển trước những biến động chính trị ở trong nước và trên thế giới thời kỳ đó

Năm 1995, ông bắt đầu tham gia hệ thống chính trị sau khi được điều chuyển sang Trung tâm nghiên cứu chính sách của TƯ ĐCS Trung Quốc. Đến nay, tên tuổi của Vương Hỗ Ninh luôn được gắn với các thông điệp về chiến lược phát triển qua các giai đoạn, như: thuyết “Ba đại diện” thời ông Giang Trạch Dân; thuyết “Phát triển khoa học” thời ông Hồ Cẩm Đào, và gần đây nhất là Tổng bí thư Tập Cận Bình với “Giấc mơ Trung Hoa”

Chủ thuyết “tân chuyên chính”

Năm 1988, ông Vương có chuyến nghiên cứu ngắn hạn tại một số trường đại học ở Mỹ. Ba điểm khiến ông hết sức ấn tượng với nước Mỹ là: năng lực sáng tạo, sức mạnh của nền kinh tế tư bản, và sự chuyển giao quyền lực trong hòa bình giữa các chính quyền

Ở tuổi 32, ông nhận định trong một cuốn sách về nước Mỹ, xuất bản năm 1991: không thể coi nhẹ chủ nghĩa tư bản. Nếu một hệ thống chính trị mà thất bại trong việc tạo ra cách thức chuyển giao quyền lực thì đất nước rất khó được thụ hưởng trật tự, ổn định chính trị bền vững. Bên cạnh những ưu điểm, Vương Hỗ Ninh cũng nhìn ra những hạn chế của nền dân chủ Mỹ nhưng không phê phán cực đoan

Ông không đề cao mô hình dân chủ Mỹ, mà muốn phác họa và thực hiện một nền dân chủ đích thực cho Trung Quốc. Từ cuối những năm 1980, chủ thuyết "Tân chuyên chính - Neoauthoritarianism", mà ông là tác giả trụ cột, không ủng hộ quan điểm mở rộng tự do chính trị, chuyển đổi dân chủ

Thay vào đó, ông khẳng định nhu cầu tập trung quyền lực xoay quanh một nhà lãnh đạo quyền uy - người có thể đưa đất nước thực hiện những bước đột phá. Có thể thấy, khi nhấn mạnh vai trò của nhà lãnh đạo quyền uy, hạt nhân quyền lực của hệ thống chính trị, thì về thực chất ông Vương đã cải biến mô hình lãnh đạo tập thể vốn đã tồn tại thời gian dài trước đó ở Trung Quốc

vuong-ho-ninh-747.jpg

Ông Vương Hỗ Ninh
Để giúp Trung Quốc tránh lặp lại sự hỗn loạn như thời cách mạng văn hóa, qua đó bảo đảm sự ổn định chính trị, tạo tiền đề cho sự phát triển của Trung Quốc, ông đề cao triết lý Pháp trị, vốn là di sản truyền thống Trung Hoa, chứ không phải triết lý Pháp quyền của phương Tây. Những động thái siết chặt kỷ cương, kỷ luật cả trong nội bộ đảng và trên bình diện xã hội ở Trung Quốc từ những năm 1990 trở lại đây là minh chứng cho sự trở lại với truyền thống Pháp trị Trung Hoa

Về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong giai đoạn đổi mới đất nước, thuyết "Tân chuyên chính" đề cao nhu cầu phát triển kinh tế hơn mở rộng dân chủ. Theo đó, do đặc thù quốc gia, Trung Quốc sẽ không thể có tự do và dân chủ nếu không duy trì được sự ổn định chính trị. Dân chủ không phải là động lực mà là hệ quả tất yếu sẽ diễn ra sau khi nước này hoàn thành các giai đoạn cải cách kinh tế - xã hội

Để thực hiện sứ mệnh chấn hưng đất nước, thuyết 'Tân chuyên chính" không chỉ coi ĐCS Trung Quốc là đội tiền phong của giai cấp công nhân, mà còn là đại diện cho các nhu cầu phát triển lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển hiện đại của văn hóa, và cho lợi ích của số đông dân chúng

Trọng người tài

Trong các cấu trúc phân tán quyền lực ở phương Tây, yếu tố con người không quan trọng bằng thể chế. Nhưng với các cấu trúc tập trung quyền lực vào hạt nhân lãnh đạo như ở Trung Quốc thì chất lượng nhân sự lại trở thành yếu tố quyết định cho mọi thành bại

Bởi thế, mô hình quân sư hay chiến lược gia chính là sự bảo đảm về trí tuệ cho thủ lĩnh chính trị - giúp họ thực sự đảm nhiệm được vai trò hạt nhân quyền lực tối thượng. Nhờ kiến thức của các chiến lược gia, các quyết định của lãnh đạo chính trị gia tăng được sự chính đáng, đúng đắn nên dễ thuyết phục hơn


Trung Quốc đáng được thế giới tôn trọng bởi họ đã xác quyết một chủ thuyết phát triển riêng, với những quan điểm và nguyên tắc rõ ràng. Nguyên liệu cho chủ thuyết đó đến từ lịch sử và thực tiễn Trung Quốc đương đại, các nước Đông Á, Mỹ Latinh, và các lý thuyết gia Hoa Kỳ như Samuel Huntington hay trường phái Chicago

Để bảo đảm sức sống cho chủ thuyết đó, lãnh đạo Trung Quốc đã đặt lòng tin vào một đại diện trí thức, không chỉ học giỏi ở trong nước mà đã từng có thời gian tu nghiệp thêm tại các đại học Mỹ như Iowa, Chicago, hay California

Sự thăng tiến của ông Vương cũng cho thấy một kênh mới của ĐCS Trung Quốc trong việc chọn lựa tầng lớp tinh hoa cầm quyền, trong đó không thể thiếu vai trò ngày càng tăng của giới trí thức thực học

Là người gắn bó với nhiều thế hệ lãnh đạo nhưng ông Vương vẫn luôn được trọng dụng, đặc biệt bình an trước chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi” đầy khốc liệt hơn 10 năm vừa qua. Thực tế này không chỉ cho thấy sự nhất quán về quan điểm và chính sách trọng người tài của các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc, mà còn khiến giới quan sát thấy được sự tự ý thức về vai trò chiến lược gia của ông Ninh. Bởi chỉ có toàn tâm toàn ý vào công việc tư duy chiến lược và chính sách cho chế độ, ông mới có thể giữ khoảng cách với những tính toán chính trị của những khuynh hướng quan điểm khác nhau trong đảng, nhờ đó tránh xa được các vi phạm

Trong cuốn nhật ký viết năm 1994, ông Vương bày tỏ suy nghĩ: “Khi một người gắn bó với công việc của mình trong một thời gian dài thì tư duy của họ sẽ bị cố định và thiếu sự cởi mở”. Đến nay, ở tuổi 66, ông vẫn đủ điều kiện để tiếp tục tại vị với tư cách thành viên Thường vụ Bộ Chính trị thêm một nhiệm kỳ nữa

Tuy nhiên, bối cảnh hiện nay đã rất khác những năm 1990, và sự thay thế ông bởi một nhân vật khác là kịch bản có thể xảy ra. Ông Vương tiếp tục tại vị hay sẽ được thay thế không chỉ ảnh hưởng đến đường lối chiến lược của ĐCS Trung Quốc trong tương lai, mà còn phần nào phát lộ năng lực phát hiện người tài, sự nhất quán chính sách trọng người tài, và tương lai của mô hình quân sư cho chế độ ở đại lục
 
Hài lòng dân để thành cường quốc nhân tài
Trung Quốc chủ trương xây dựng nền giáo dục “hài lòng dân”, với 3 tiêu chí cốt lõi: hệ thống đào tạo chất lượng cao, tố chất nhân tài toàn diện và cơ hội giáo dục công bằng

Sau cuộc trỗi dậy ngoạn mục về kinh tế, Trung Quốc đưa ra “Giấc mộng phục hưng dân tộc Trung Hoa”, với nội hàm hoàn thành mục tiêu hai lần 100 năm: Xây dựng thành công xã hội khá giả vào năm 2021 (nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập ĐCS Trung Quốc) và trở thành cường quốc hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hoà, tươi đẹp vào năm 2049 (nhân 100 năm ngày thành lập nước)

trung-qu-c-1767.jpg

Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy nhanh lộ trình đào tạo nguồn nhân tài mang tầm chiến lược quốc gia, trên mọi phương diện
Để hiện thực hoá mục tiêu phục hưng dân tộc, đồng thời đối phó với chính sách kiềm chế và chia tách về khoa học công nghệ nhằm vào Trung Quốc của các nước phương Tây, đại lục đã đề ra một tầm nhìn phát triển quốc gia, tập trung tăng cường nội lực mà trọng tâm là nâng cao năng lực tự chủ về giáo dục và khoa học công nghệ

Đại hội 20 ĐCS Trung Quốc khẳng định sẽ “thực thi chiến lược khoa học và giáo dục chấn hưng đất nước, tăng cường trụ cột nhân tài cho xây dựng hiện đại hóa”. Đây là nhiệm vụ chiến lược then chốt trong giai đoạn tới. Nước này chủ trương xây dựng nền giáo dục “hài lòng dân”, với 3 tiêu chí cốt lõi: hệ thống đào tạo chất lượng cao, tố chất nhân tài toàn diện và cơ hội giáo dục công bằng. Những tiêu chí này không chỉ thích ứng với chiến lược phát triển đất nước trong dài hạn, mà còn phù hợp với đòi hỏi bức thiết của mọi tầng lớp nhân dân

Để xây dựng hệ thống đào tạo chất lượng cao, thời gian tới, Trung Quốc sẽ đầu tư nhiều hơn cho việc nâng cấp chương trình ở mọi bậc học và mọi loại hình giáo dục, trong đó chú trọng cập nhật và vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới nhất, thực hiện lộ trình số hóa nền giáo dục; bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực hàng đầu thế giới; tăng cường mối liên kết giữa nhà trường, nhất là các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu khoa học, với các doanh nghiệp nhằm đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn kinh doanh, sản xuất

Chiến lược cường quốc nhân tài


Trung Quốc khẳng định trong Báo cáo chính trị tại Đại hội 20 rằng, thực thi “Chiến lược xây dựng cường quốc nhân tài”, coi “đào tạo nhân lực có tố chất cao, có tài, có đức (nhân tài toàn diện) là phương châm lớn cho sự phát triển lâu dài của đất nước”

Để đạt được mục tiêu này, Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy nhanh lộ trình đào tạo nguồn nhân tài mang tầm chiến lược quốc gia, trên mọi phương diện, đặc biệt là nhân tài có năng lực sáng tạo, đột phá trong lĩnh vực công nghệ hiện đại; thực thi chính sách, cơ chế đãi ngộ, thu hút, sử dụng, bảo vệ nhân tài ưu việt nhằm phát huy tối đa tiềm lực của nhân tài; tăng cường giao lưu quốc tế để vừa nâng cao trình độ nhân tài trong nước, vừa thu hút tốt nhất nguồn lực tinh hoa của thế giới

Khâu yếu của nền giáo dục Trung Quốc hiện nay là tình trạng mất cân bằng, thiếu bình đẳng về cơ hội giáo dục giữa các vùng miền. Chủ tịch Tập Cận Bình đã xác định mối mâu thuẫn cơ bản hiện nay là “mối mâu thuẫn giữa nhu cầu sống tốt đẹp của người dân và sự phát triển không cân bằng, không đầy đủ”. Nói cách khác, Trung Quốc đang phải giải quyết vấn đề phân phối bất bình đẳng sau 40 năm phát triển với tốc độ như vũ bão. Điều này không chỉ thể hiện ở khoảng cách thu nhập, chệnh lệch vùng miền mà cả trên khía cạnh mất cân bằng về giáo dục


Với quyết tâm thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng cân bằng, đầy đủ hơn, Trung Quốc ngày càng coi trọng các chính sách và biện pháp phân bổ nguồn lực giáo dục vùng miền hợp lý; tạo mối liên kết bổ trợ giữa thành thị và nông thôn; ưu tiên kinh phí đầu tư giáo dục cho các vùng nông thôn, miền núi, đặc biệt là những khu vực nghèo, lạc hậu; thực hiện cơ chế thụ hưởng chế độ giáo dục công bằng đối với mọi thành viên xã hội, trong đó chú trọng hơn đến con em của lao động nông thôn ra thành phố làm việc và sinh sống

Có thể thấy, phát triển giáo dục là điểm nhấn rõ nét tại Đại hội 20, cũng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với mục tiêu chấn hưng đất nước và xây dựng cường quốc nhân tài của Trung Quốc

Đã qua rồi một giai đoạn dài Trung Quốc trỗi dậy bằng cách “đi nhờ” những “chuyến tàu nhanh” của các quốc gia phát triển. Ngày nay, để có thể khắc phục điều mà Trung Quốc coi là “điểm nghẽn” nhằm trở thành cường quốc công nghệ và sáng tạo hàng đầu thế giới, tự chủ về giáo dục trở thành định hướng chính sách phát triển then chốt. Không chỉ thế, trong tương lai, nếu Trung Quốc có thể mời các quốc gia khác đi trên những “chuyến tàu nhanh” về khoa học và giáo dục, đây sẽ là phương thức lan toả tầm ảnh hưởng và sức mạnh mềm hữu hiệu của một cường quốc hào phóng và trách nhiệm

TS Hoàng Huệ Anh (Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Hàn lâm KHXHVN)
 
Nhà tri thức giàu có

Khổng Tử là một cố vấn chuyên nghiệp cho các vị vua thời Xuân Thu. Ông dẫn học trò lang thang khắp nơi, cố vấn cho hết vua này đến vua khác, học trò theo ông có lúc đông nhất đến ba bốn chục người. Ông xây dựng, đào tạo được một đội ngũ có đủ quan văn, quan võ, ngoại giao... để chỉ cần chọn được “minh chủ” thì ê-kíp của ông đã sẵn sàng vận hành một quốc gia

Về đời sống, thầy trò Khổng Tử không cày ruộng nhưng tới nước nào cũng được vua hoặc đại phu nước đó thiết đãi (dù đôi lúc cũng phải nhịn đói, mặt xanh như tàu lá, đặc biệt sau khi chia tay một ông vua này và tìm một chủ mới để thờ). Cơ bản do tính cách Khổng Tử quá ngay thẳng, nhiều tham vọng. Nếu chịu nhẫn nhịn, thầy trò ông hẳn đã có một đời sống sung túc

Mạnh Tử là hậu duệ của Khổng Tử sau hơn trăm năm. Mạnh Tử là một nhà du thuyết chuyên nghiệp, có lẽ còn chuyên nghiệp hơn những diễn giả thời nay bởi ông diễn thuyết cho vua nghe. Mạnh Tử tính tình còn thẳng thắn, cao ngạo hơn cả Khổng Tử, ông vua nào làm phật ý, ông mắng luôn (chẳng hạn, ông mắng vua Lương Huệ Vương: “Bếp vua có thịt béo, tàu vua có ngựa mập, mà dân thì có sắc đói, đồng ruộng la liệt những kẻ chết đói; như vậy khác nào vua sai thú ăn thịt người”)

Sách “Mạnh Tử” của tác giả Nguyễn Hiến Lê kể Mạnh Tử nổi danh là một bậc đại nho, có nhiều môn sinh, được nhiều người trọng vọng. Ông cùng với môn sinh bôn ba các nước Lỗ, Lương, Tề, Đằng, Tống, ráng tìm một vị minh chủ để thực hành đạo của Khổng Tử

Những lời khuyên của ông được các ông vua coi trọng và đôi khi áp dụng. Ông sống rất sang, tới đâu cũng được các vua tiếp đãi trọng hậu, ông có ngựa xe, tiền vàng, lương thảo như một bậc quý tộc (dù ông xuất thân từ bình dân)

Mỗi khi qua một nước, Mạnh Tử dắt theo cả mấy chục cỗ xe, mấy trăm người tùy tùng và vua nước ấy phải cung cấp lương thực. Tới khi ông rời một nước thì vua còn dâng ông chút ít để lên đường, “chút ít” đó có khi là 70 dát vàng như hồi ông rời nước Tống (mỗi dát bằng 20 - 24 lượng vàng)

triet-gia-81.jpg

Một bức tượng triết gia Socrates
Ở phương Tây thì sao? Thời Hy Lạp cổ đại, Socrates chẳng phải làm việc tay chân, chẳng bận lo cái ăn, cái mặc. Ông đi lang thang du thuyết, tranh biện. Triết học của ông đúc rút từ những cuộc nói chuyện, tranh luận của ông với bè bạn, được đúc rút trong 2 cuốn sách của Plato - trò của Socrates - ghi lại các cuộc trò chuyện của ông: cuốn “Cộng hòa” và cuốn “Ngày cuối trong đời Socrates”. Socrates nổi bật với tài hùng biện

Ngày nay, rất nhiều cuộc thi hùng biện của học sinh, sinh viên có tên gắn với Socrates. Tên tuổi của ông còn gắn với “Socratic Method” (Phương pháp Socrates) là một hình thức đối thoại, đặt và trả lời các câu hỏi để kích thích tư duy phản biện

Sử sách không ghi lại Socrates làm gì để kiếm cơm. Cho đến khi phải đón nhận án tử hình bằng thuốc độc, Socrates hẳn đã có một đời sống sung túc, không phải lo cơm áo gạo tiền. Cả đời ông chỉ lang thang du thuyết, tranh biện với bè bạn, không mảy may chuyện mưu sinh. Mấy ai được sung sướng như vị triết gia vĩ đại ấy

Trước thời đại Socrates, Pythagoras - nhà toán học lỗi lạc có đủ tiền để “du học” qua Ai Cập, Babylon... trong nhiều năm để tích lũy khối kiến thức sâu rộng về số học, hình học, thiên văn, địa lý, y học, triết học... Về già, ông mở trường học tư, nhận hàng trăm môn sinh và có đời sống sung túc bằng nghề dạy học. Riêng Pythagoras chỉ trực tiếp dạy những học sinh xuất sắc nhất (giống thầy giáo giỏi chỉ dạy lớp chuyên ngày nay)

Trí thức thời nay còn nghèo

Quay lại câu hỏi chính, rút cục nhà trí thức có nên giàu không? Có, đương nhiên có (giàu trong một chừng mực nào đó). Không chỉ bởi đó là câu trả lời cho câu hỏi “Ai xứng đáng với điều gì?” (nhà trí thức xứng đáng giàu có để trả công cho những năm tháng miệt mài nghiên cứu khoa học, cống hiến và hi sinh những nhu cầu khác của bản thân để trở thành một nhà trí thức)

Theo tôi, nhà trí thức nên giàu có, sung túc bởi điều đó sẽ khuyến khích mọi người trở thành những nhà trí thức. Làm sao tôi có thể định hướng, khuyến khích các con mình trở thành những nhà trí thức khi thấy anh giáo sư bên hàng xóm cả đời nghèo kiết xác?

Một cách tổng quát, các tri thức trong xã hội giàu cho thấy xã hội đó tôn vinh giá trị của tri thức. Xã hội ấy có động lực để phát triển. Các quốc gia giàu mạnh, văn minh đều tôn vinh giá trị của tri thức: Nhật, Đức, Israel... Tại Mỹ, giáo sư Ngô Bảo Châu nhận mức lương khoảng 200.000 USD/năm tại Đại học Chicago (số liệu cách đây khoảng 10 năm), không quá giàu nhưng cũng đảm bảo đời sống chất lượng cho bản thân và gia đình

dsc07352-82.jpg

Các quốc gia giàu mạnh, văn minh đều tôn vinh giá trị của tri thức
Ở ta thì sao? Nhìn quanh, tôi thấy nhiều nhà trí thức nghèo. Một số người giàu nhưng không phải trực tiếp nhờ tri thức. Chỉ có một số lượng rất nhỏ nhà trí thức có thể làm giàu trực tiếp bằng tri thức của mình

Ngược lại, “trí thức giả”, “ngụy khoa học”... thì nhiều, luận văn sao chép, đạo văn nhiều vô kể (bạn đọc có thể tra cứu qua Google). Tham gia nhiều hội thảo khoa học về xây dựng pháp luật, tôi thấy rất nhiều giáo sư, tiến sĩ nói những điều xưa cũ, những mớ lý thuyết xa rời thực tiễn, không có giá trị tham khảo, áp dụng. Nhóm trí thức này chưa sẵn sàng tham gia vào đời sống sản xuất

Có vị luật sư có tiếng được mời dự hội thảo xây dựng luật nhằm thực hiện chức năng xã hội của luật sư nhưng điềm nhiên nói để “cài cắm” chính sách có lợi cho mình (vì anh đồng thời là chủ doanh nghiệp đầu tư dự án du lịch, nghỉ dưỡng)... Nhóm trí thức này tham gia vào đời sống sản xuất nhưng với động lực làm lợi cho bản thân thay vì chăm lo lợi ích chung

Thực trạng ấy thật đáng buồn. Ta chạy sau rất xa các quốc gia khác, nếu không đầu tư cho giáo dục, đào tạo, không phát triển đội ngũ trí thức, thì làm sao có ngày “sánh vai cường quốc năm châu”?

Ước mơ của tôi là được thấy các nhà trí thức ở ta giàu và có thể làm giàu trực tiếp bằng tri thức của mình. Khi ấy, các bậc cha mẹ có thể khuyến khích, định hướng cho con mình trở thành những nhà tri thức, thay vì làm kinh tế, đi buôn. Đó là lúc giấc mơ “Việt Nam hùng cường” trở nên rất đỗi thực tế, gần gũi

Nguyễn Văn Đỉnh
 
Doanh nghiệp tìm lời khuyên địa chính trị khi căng thẳng gia tăng trên toàn cầu

Các công ty đa quốc gia đang thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao hiểu biết về địa chính trị trong bối cảnh các căng thẳng gia tăng trên toàn cầu. Điều này giúp họ đánh giá chính xác hơn về thị trường mục tiêu và chuỗi cung ứng

Doanh-nghiep-tim-loi-khuyen-ve-dia-chinh-tri.jpg

Các tập đoàn đa quốc gia như Microsoft của Mỹ và Hitachi của Nhật Bản đang tìm cách nâng cao hiểu biết về tình hình địa chính trị toàn cầu và các rủi ro liên quan

Tìm sự tư vấn của các cựu quan chức ngoại giao

Trong khi một số doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn chuyên môn, những công ty khác như Hitachi (Nhật Bản) và ngân hàng đầu tư Lazard (Mỹ) thuê các cựu quan chức ngoại giao và chính trị gia để đưa ra lời khuyên trực tiếp cho các CEO

Lord Malloch-Brown, cựu quan chức ngoại giao và là chủ tịch của mạng lưới Open Society Foundations, cho biết trước đây luôn có một số nhà ngoại giao nghỉ hưu làm việc ở một góc của văn phòng ở các công ty đa quốc gia. Họ sẵn sàng tư vấn cho CEO về một số khó khăn chính trị địa phương

“Điều xảy ra gần đây là chúng ta đã chuyển từ thời kỳ toàn cầu hóa đỉnh cao, nơi thị trường xác định địa điểm sản xuất và bán hàng, sang kỷ nguyên của một thị trường toàn cầu được chính trị hóa nhiều hơn”, ông bình luận

Sau khi xung đột Nga-Ukraine nổ ra năm ngoái, nhiều doanh nghiệp không kịp trở tay để ứng phó. Giờ đây, họ đang xem xét kỹ hơn các điểm nóng chính trị như quan hệ của Trung Quốc với Đài Loan, tác động của cuộc xung đột hiện tại ở Trung Đông giữa Hamas và Israel và khả năng ông Donald Trump trở lại ghế tổng thống của nước Mỹ

Tại Nhật Bản, nước có mối quan hệ căng thẳng với các nước láng giềng như Trung Quốc và Nga, trong 3 năm qua, các công ty đa quốc gia như Hitachi, tập đoàn đồ uống Suntory và các ngân hàng lớn nhất nước đã thuê các cựu quan chức ngoại giao, chuyên gia quan hệ quốc tế và phóng viên nước ngoài nhằm nâng cao chuyên môn trong lĩnh vực đánh giá rủi ro địa chính trị. Các nguồn thạo tin cho biết, trong những đợt tuyển dụng gần đây nhất, các nhà ngoại giao và chuyên gia khác được hai công ty bảo hiểm lớn nhất Nhật Bản và ba tập đoàn thương mại lớn nhất Nhật Bản là Mitsubishi, Mitsui và Itochu săn đón

Ở các doanh nghiệp lớn khác của Nhật Bản, vai trò “giám đốc rủi ro địa chính trị” đã được thiết lập để phản ánh mức độ quan tâm nghiêm túc đến chủ đề này. “Hai đồng nghiệp của tôi gần đây đã đến làm việc tại các công thương mại và một người khác làm cho một công ty năng lượng”, một nhà ngoại giao Nhật Bản hiện làm việc bên ngoài Nhật Bản tiết lộ. Theo nhà ngoại giao này, các công ty mong muốn hiểu biết chi tiết hơn về rủi ro địa chính trị và về cơ bản họ sử dụng nhân sự của Bộ ngoại giao Nhật Bản như một nguồn cung cấp chuyên môn

“Họ nghĩ rằng có thể nắm bắt được những thông tin khó tiếp cận bằng cách trả tiền cho nhà ngoại giao mà họ đang cố gắng thuê. Điều đó có vẻ đang có tác dụng”, nhà ngoại giao nói thêm

Tập đoàn Mitsubishi xác nhận đã thành lập một ủy ban tình báo toàn cầu do chủ tịch của tập đoàn đứng đầu hồi năm ngoái. Mitsubishi cũng thiết lập một hệ thống cung cấp thông tin rủi ro địa chính trị, điều kiện kinh tế, công nghệ mới, xu hướng chính sách cho ban lãnh đạo

Trong khi đó, các công ty nhỏ hơn của Nhật Bản đang thuê tư vấn bên ngoài với tốc độ chưa từng có. Một chuyên gia tư vấn cho các công ty Nhật Bản cho biết, chiến sự Ukraine cho thấy, rủi ro đang trở nên khó dự đoán hơn và một số rủi ro hiện hữu như các biện pháp trừng phạt cứng rắn hơn của Mỹ nhằm vào Trung Quốc, đã đạt đến cấp độ mà các công ty cần sự giúp đỡ từ bên ngoài. “Họ không chỉ muốn chúng tôi kể cho họ nghe về một hoặc hai tình huống. Họ đang yêu cầu chúng tôi xếp hạng tất cả những rủi ro mà họ có thể gặp phải trên toàn thế giới”, vị chuyên gia cố vấn nói

Ngành công nghệ chú trọng rủi ro địa chính trị

Các ngành công nghiệp như dầu khí, có các hoạt động quan trọng ở những khu vực dễ biến động trên thế giới, thường là khách hàng chính của các cố vấn địa chính trị. Nhưng khi các công ty trong các lĩnh vực khác mở rộng thị trường và chuỗi cung ứng, họ cũng nhận thấy cần nâng cao chuyên môn địa chính trị

Một ngành đã xây dựng được chuyên môn địa chính trị nội bộ đáng kể là lĩnh vực công nghệ của Mỹ, vốn chịu áp lực quản lý khéo léo sự kết hợp giữa sự phụ thuộc vào các chip chuyên dụng được sản xuất tại Đài Loan và sự hiện diện tại thị trường Trung Quốc

“Ngành công nghệ vượt xa dầu khí trong việc quản lý rủi ro địa chính trị. Microsoft là công ty giỏi nhất trong việc xây dựng đội ngũ địa chính trị nội bộ, bao gồm cả một lãnh đạo cao cấo phụ trách quan hệ với Liên hợp quốc”, Manas Chawla, người sáng lập Công ty tư vấn địa chính trị London Politica, nhận xét

Một số cựu quan chức tình báo và nhà ngoại giao gần đây chuyển sang làm việc cho khu vực tư nhân. Stephen Lovegrove, cựu Cố vấn an ninh quốc gia Anh đã trở thành cố vấn cấp cao của ngân hàng đầu tư Lazard trong năm nay, trong khi cựu Giám đốc Cơ quan tình báo Anh (MI6) Alex Younger gia nhập ngân hàng Goldman Sachs với tư cách chuyên gia cố vấn vào năm 2021

Theo Mark Freebairn, đối tác của Công ty săn đầu người Odgers Berndtson, các công ty thuê cựu đại sứ, quan chức quân sự và tình báo cho công việc tư vấn có thể trả mức phí lên tới 2.000-5.000 bảng (2.400 – 6.100 đô la Mỹ)/giờ

Cùng với việc cung cấp các phân tích và lời khuyên, các chuyên gia tư vấn có thể giúp mở ra cánh cửa cho các công ty đang tìm cách xây dựng mối quan hệ với các chính phủ nước ngoài. Dana White, người đứng đầu bộ phận cố vấn chiến lược toàn cầu của Ankura, một công ty tư vấn của Mỹ, cho biết công ty bà đã mua lại một doanh nghiệp tư vấn về quan hệ Mỹ-Trung, giúp thiết lập các giao thiệp cấp cao giữa các giám đốc điều hành và các quan chức Trung Quốc

Một phân tích của Financial Times về các bản công bố thông tin của các công ty toàn cầu và Mỹ trên nền tảng dữ liệu AlphaSense cho thấy cụm từ “địa chính trị” (geopolitics) ngày càng được nhắc đến nhiều hơn kể từ năm 2017 và việc sử dụng cụm từ này đã tăng lên sau chiến sự Ukraine. Theo Công ty phân tích JH Whitney Data Services, sau cuộc xung đột Nga-Ukraine, các khách hàng Mỹ bắt đầu yêu cầu tư vấn về chuỗi cung ứng của họ và rủi ro ở các nước châu Á, trong trường hợp xảy ra xung đột ở Thái Bình Dương

”Nhiều công ty ở Mỹ, đặc biệt là các nhà bán lẻ trực tuyến và các công ty dịch vụ tài chính, đã xây dựng dịch vụ tổng đài rất quan trọng ở Philippines”, John O’Connor, Chủ tịch của JH Whitney, nói

Barton Malow, một công ty xây dựng của Mỹ với 3.000 nhân viên, có trụ sở chính tại bang Michigan, đang coi trọng địa chính trị hơn trong kế hoạch kinh doanh. “Công bằng mà nói thì thế giới đã chuyển từ trạng thái ổn định và trật tự tương đối sang kém ổn định hơn nhiều. Sự gián đoạn toàn cầu hóa này tất nhiên có tác động đến hoạt động kinh doanh”, Ryan Maibach, CEO của Barton Malow, cho biết. Barton Malow đã thuê Công ty tư vấn rủi ro chính trị Prism để giúp đánh giá tác động của các mối đe dọa tiềm ẩn, bao gồm rủi ro xung đột giữa Trung Quốc và Đài Loan và biến đổi khí hậu, đối với hoạt động kinh doanh và khách hàng của Barton Malow

Theo Mziar Minovi, CEO của Công ty tư vấn địa chính trị Eurasia Group, các công ty đa quốc gia đã bắt đầu lên kế hoạch cho các cuộc khủng hoảng địa chính trị giống như cách họ dự phòng cho các thảm họa thiên nhiên
 
Top