What's new
Vietnam - Điện Biên Phủ Kinh Tế

This is a sample guest message. Register a free account today to become a member! Once signed in, you'll be able to participate on this site by adding your own topics and posts, as well as connect with other members through your own private inbox!

Cờ Vây StartUp

Ấn Độ vươn cánh tay sang ngành dược​

5249_duoc-AnDo2.jpg

Ấn Độ đang tiến xa hơn trong chuỗi giá trị, đặc biệt là lĩnh vực luật pháp và chẩn đoán y học. Và nay, họ vươn sang cả ngành dược, vốn là ngành đòi hỏi kỹ thuật cao.

Với lao động rẻ có chuyên môn cao cùng kinh nghiệm sản xuất thuốc phiên bản, Ấn Độ đang trở thành điểm đến của các hãng dược lớn phương Tây

G. V. Prasad, Tổng Giám đốc Dr. Reddy’s Laboratories, cũng cho rằng các nhà sản xuất dược phẩm Ấn Độ có khả năng phát triển các loại thuốc với quy mô lớn mà chi phí rất thấp. Thuốc điều trị tiểu đường của Dr. Reddy’s Laboratories đã hoàn tất các cuộc thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3, bước cuối cùng trước khi đệ đơn xét duyệt lên Cơ quan Thực Dược phẩm Mỹ (FDA). Đây là bước tiến xa nhất so với các nghiên cứu cùng loại thuốc của các đối thủ.

Trong khi đó, tại phòng thí nghiệm hiện đại của Sun ở Gujarat, 650 nhà khoa học đang phân tích các loại thuốc đặc trị hiện có trên thị trường, rồi tái sản xuất chúng sử dụng các thành phần giá rẻ hơn và có ít tác dụng phụ hơn. Tính cách mạng không phải chỉ là phát triển một loại thuốc hoàn toàn mới, mà còn là tìm ra cách để sản xuất các loại thuốc hiện có một cách hiệu quả. Đó là nhận định của T. Rajamannar, Phó Chủ tịch Điều hành của Sun.

Và những thách thức
Mặc dù có tiềm năng phát triển rất lớn, nhưng ngành dược Ấn Độ vẫn còn một quãng đường khá xa mới có thể tiến vào hàng ngũ các đại gia dược của thế giới. Theo số liệu của Chính phủ Ấn Độ, nước này xuất khẩu khoảng 384 tỉ rupee (tương đương 8,3 tỉ USD) trị giá dược phẩm và dịch vụ cho ngành dược trong năm tài chính 2008-2009, tăng 25% so với năm trước. Tuy nhiên, quốc gia này cũng đang đối mặt với những vấn đề về chất lượng sản phẩm. Trong những năm gần đây, FDA đã nhiều lần cảnh báo Ranbaxy vì liên tục vi phạm quy định trong sản xuất. Mới đây, tháng 2.2010, cơ quan này đã yêu cầu rà soát lại các cơ sở sản xuất của Ranbaxy trên toàn cầu.

Vào tháng 5, tập đoàn dược phẩm Pháp Sanofi-Aventis đã thu hồi các liều vaccine do doanh nghiệp dược Ấn Độ bị họ thâu tóm năm 2009, Shantha Biotechnics, sản xuất để cung cấp cho Tổ chức Y tế Thế giới, sau khi xuất hiện những than phiền có các chất cặn màu trắng đọng ở ống thuốc. Vào tháng 6, công ty nghiên cứu dược phẩm Mỹ Pfizer cũng đã thu hồi các loại thuốc tiêm bán tại Mỹ do đối tác Ấn Độ Claris Lifesciences sản xuất.

Quyền sở hữu trí tuệ cũng là một vấn đề đau đầu. Nhằm thay đổi hình ảnh “lò sản xuất thuốc giả”, Ấn Độ đã siết chặt hơn luật bản quyền sáng chế vào năm 2005. Nhưng đến nay, hàng chục vụ kiện tranh chấp bản quyền sáng chế giữa các công ty Ấn Độ và công ty nước ngoài vẫn còn chưa ngã ngũ.

Trong khi đó, tình trạng sản xuất thuốc giả vẫn kéo dài ở Ấn Độ. Một nghiên cứu năm nay lấy thông tin từ các nhà bán sỉ dược phẩm Ấn Độ cho thấy, 3,6% số thuốc không có các thành phần có tác dụng chữa bệnh.

“Chi phí đúng là một yếu tố quan trọng. Tuy nhiên, có 2 yếu tố khác quan trọng không kém là cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và các vấn đề chất lượng, an toàn dược phẩm”. Panos Kalaritis, Giám đốc Hoạt động (COO) của Irix Pharmaceuticals, có trụ sở tại Mỹ, một công ty chuyên sản xuất và nghiên cứu theo hợp đồng trong ngành dược phẩm, nhận định

G. V. Prasad, Tổng Giám đốc Dr. Reddy’s Laboratories, cũng cho rằng các nhà sản xuất dược phẩm Ấn Độ có khả năng phát triển các loại thuốc với quy mô lớn mà chi phí rất thấp. Thuốc điều trị tiểu đường của Dr. Reddy’s Laboratories đã hoàn tất các cuộc thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3, bước cuối cùng trước khi đệ đơn xét duyệt lên Cơ quan Thực Dược phẩm Mỹ (FDA). Đây là bước tiến xa nhất so với các nghiên cứu cùng loại thuốc của các đối thủ.

Trong khi đó, tại phòng thí nghiệm hiện đại của Sun ở Gujarat, 650 nhà khoa học đang phân tích các loại thuốc đặc trị hiện có trên thị trường, rồi tái sản xuất chúng sử dụng các thành phần giá rẻ hơn và có ít tác dụng phụ hơn. Tính cách mạng không phải chỉ là phát triển một loại thuốc hoàn toàn mới, mà còn là tìm ra cách để sản xuất các loại thuốc hiện có một cách hiệu quả. Đó là nhận định của T. Rajamannar, Phó Chủ tịch Điều hành của Sun.

Và những thách thức
Mặc dù có tiềm năng phát triển rất lớn, nhưng ngành dược Ấn Độ vẫn còn một quãng đường khá xa mới có thể tiến vào hàng ngũ các đại gia dược của thế giới. Theo số liệu của Chính phủ Ấn Độ, nước này xuất khẩu khoảng 384 tỉ rupee (tương đương 8,3 tỉ USD) trị giá dược phẩm và dịch vụ cho ngành dược trong năm tài chính 2008-2009, tăng 25% so với năm trước. Tuy nhiên, quốc gia này cũng đang đối mặt với những vấn đề về chất lượng sản phẩm. Trong những năm gần đây, FDA đã nhiều lần cảnh báo Ranbaxy vì liên tục vi phạm quy định trong sản xuất. Mới đây, tháng 2.2010, cơ quan này đã yêu cầu rà soát lại các cơ sở sản xuất của Ranbaxy trên toàn cầu.

Vào tháng 5, tập đoàn dược phẩm Pháp Sanofi-Aventis đã thu hồi các liều vaccine do doanh nghiệp dược Ấn Độ bị họ thâu tóm năm 2009, Shantha Biotechnics, sản xuất để cung cấp cho Tổ chức Y tế Thế giới, sau khi xuất hiện những than phiền có các chất cặn màu trắng đọng ở ống thuốc. Vào tháng 6, công ty nghiên cứu dược phẩm Mỹ Pfizer cũng đã thu hồi các loại thuốc tiêm bán tại Mỹ do đối tác Ấn Độ Claris Lifesciences sản xuất.

Quyền sở hữu trí tuệ cũng là một vấn đề đau đầu. Nhằm thay đổi hình ảnh “lò sản xuất thuốc giả”, Ấn Độ đã siết chặt hơn luật bản quyền sáng chế vào năm 2005. Nhưng đến nay, hàng chục vụ kiện tranh chấp bản quyền sáng chế giữa các công ty Ấn Độ và công ty nước ngoài vẫn còn chưa ngã ngũ.

Trong khi đó, tình trạng sản xuất thuốc giả vẫn kéo dài ở Ấn Độ. Một nghiên cứu năm nay lấy thông tin từ các nhà bán sỉ dược phẩm Ấn Độ cho thấy, 3,6% số thuốc không có các thành phần có tác dụng chữa bệnh.

“Chi phí đúng là một yếu tố quan trọng. Tuy nhiên, có 2 yếu tố khác quan trọng không kém là cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và các vấn đề chất lượng, an toàn dược phẩm”. Panos Kalaritis, Giám đốc Hoạt động (COO) của Irix Pharmaceuticals, có trụ sở tại Mỹ, một công ty chuyên sản xuất và nghiên cứu theo hợp đồng trong ngành dược phẩm, nhận định
 
IDG sẽ mở thêm hai quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam​

1IDG_260.jpg

Tập đoàn Dữ liệu Quốc tế (IDG) sẽ mở thêm hai quỹ mạo hiểm với tổng vốn 400 triệu USD vào lĩnh vực công nghệ thông tin Việt Nam

Thông tin trên được ông Patrick J. McGovern, nhà sáng lập và Chủ tịch IDG, cho biết tại buổi họp báo công bố Triển lãm Quốc tế Điện tử tiêu dùng và Tin học - Viễn thông Việt Nam 2010 (VCE 2010), sẽ diễn ra tại Hà Nội từ ngày 21 - 24/10/2010

Hiện IDG đã có một quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, được thành lập năm 2004, mang tên IDG Venture Việt Nam. Theo ông Nguyễn Bảo Hoàng, Tổng giám đốc điều hành IDG Venture Việt Nam, số quỹ ban đầu 100 triệu USD đã được đầu tư hết, chủ yếu vào các công ty tư nhân thuộc lĩnh vực viễn thông, truyền thông và công nghệ

Và trong năm 2011, theo ông Patrick J. McGovern, IDG sẽ đầu tư quỹ mạo hiểm thứ hai với số vốn 150 triệu USD, tập trung vào các công ty mới hoạt động được một - hai năm, có tiềm năng phát triển trong tương lai, nhưng đang gặp khó khăn về vốn

Sang năm 2012, IDG sẽ đưa ra quỹ thứ ba, với số vốn là 250 triệu USD. Mục tiêu của quỹ này là đầu tư vào các công ty đã hoạt động được từ hai năm trở lên, đã có những sản phẩm có thương hiệu trên thị trường. Đồng thời, quỹ này cũng có thể sẽ được sử dụng đầu tư sang cả các lĩnh vực khác như chăm sóc sức khỏe, bán lẻ...

Về sự kiện VCE 2010, IDG Việt Nam cho biết, triển lãm sẽ tập trung vào 6 lĩnh vực: viễn thông và mạng kỹ thuật số; máy tính, phần cứng và phần mềm; các phụ tùng, thiết bị công nghiệp điện tử; giải trí và game; điện tử và máy tính; và ứng dụng phần mềm

Với diện tích dành cho triển lãm hơn 5000 m2, Ban tổ chức hy vọng qua 4 ngày tổ chức, sẽ thu hút hơn 150.000 lượt khách tham quan với hai nhóm đối tượng chính: nhóm khách hàng đến từ các cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp và nhóm người tiêu dùng cá nhân
 
Cần những bộ óc thông minh hơn sức mạnh dầu lửa​

Tầm nhìn của Medvedev về tương lai của Nga là về các khối óc chứ không phải về sức mạnh dầu lửa, những quả bom hay điện Cremli

Quyết tâm cho một nước Nga thông minh

Khi Vladimir Putin nói về việc khôi phục sự vĩ đại của nước Nga, ông đã nêu ra một tầm nhìn sâu sắc trong thế kỷ 20 về việc sử dụng sức mạnh nhà nước, khả năng quân sự và sự dồi dào dầu lửa để khiến thế giới phải tôn trọng.

Đề cập vấn đề này, vị Tổng thống của ông, Dmitry Medvedev, lại nói về việc xây dựng "một thành phố đổi mới" ở ngoại ô Skolkovo của Mátxcơva, nơi nhà nước sẽ để những khối óc giỏi nhất của quốc gia tự do theo đuổi những bước đột phá về khoa học và công nghệ, nền tảng của "nền kinh tế tri thức" trong thế kỷ 21.

Tầm nhìn của Medvedev được thiết kế để giải phóng nước Nga khỏi thứ mà ông gọi là sự phụ thuộc "nhục nhã" vào xuất khẩu dầu khí, và để khôi phục sự vĩ đại của một dân tộc đã từng nổi tiếng về thành tựu khoa học và công nghệ.

Zhores Alferov, người đoạt giải Nobel duy nhất vẫn đang sống tại Nga, cũng là người được Medvedev chọn làm người quản lý dự án Skolkovo hồi tháng 4/2010, nói: "Sự thành công của phong trào "nước Nga thông minh" là một vấn đề mang tính sống còn đối với nước Nga. Ý tưởng Skolkovo gióng chiếc thuyền của Noah (con thuyền được nhắc đến trong Kinh Thánh do Chúa hướng dẫn Noah đóng để tránh qua con Đại hồng thủy do Chúa tạo ra để trừng phạt loài người vốn đã có quá nhiều tội lỗi)- mọi ý tưởng về hy vọng và sự sống sót của chúng tôi được gắn chặt trên đó".

Liệu Nga có lại nổi lên thành một cường quốc vĩ đại hay không có thể được quyết định bởi chiến dịch của Medvedev phục hồi sự thông minh của nước Nga.

Bất chấp sự thiếu hiệu quả của mình, nhà nước Liên Xô đã từng là một nước ủng hộ hào phóng cho khoa học và công nghệ, chế tạo vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới cũng như tàu vũ trụ mà đã đưa nhà du hành vũ trụ đầu tiên vào không gian.

28036885.jpg

Liệu Nga có lại nổi lên thành một cường quốc vĩ đại hay không có thể được quyết định bởi chiến dịch của Medvedev phục hồi sự thông minh của nước Nga​

Sau sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991, sự ủng hộ của nhà nước dành cho khoa học sụt giảm mạnh, các nhà khoa học đã chạy ra nước ngoài và bản thân nhà nước này đã tiến triển thành cái tương tự như một dã thú- về mặt lý thuyết thì cam kết theo hướng thị trường tự do, nhưng trên thực tế thường xuyên "chiếm đoạt" lợi nhuận của các doanh nghiệp tư nhân.

Trong thế hệ ở giữa hai sự kiện là chuyến bay vào vũ trụ của Yuri Gagarin và cuộc bầu cử của Putin năm 2000, GDP và sản xuất công nghiệp của Nga đã giảm gần 50%, và kèm theo đó là đầu tư vào khoa học giảm từ 6% GDP xuống còn 1,5% GDP.

Tình trạng chảy máu chất xám đã bắt đầu vào những năm 1970 khi những người Do Thái có giáo dục của Liên Xô như cha mẹ của Sergey Brin- người đồng sáng lập ra Google- chạy sang phương Tây tự do.

Đến cuối thế kỷ 20, nó đã cướp đi của Nga hơn nửa triệu người tài năng nhất. Cả Putin lẫn Medvedev đều tin rằng nhà nước có thể giải quyết các vấn đề của Nga - nhưng trong khi Putin xem bộ máy hành chính của Nga hiện nay như nguồn sức mạnh của ông, thì Medvedev xem nó như trở ngại (nạn tham nhũng) cho việc tạo ra một nền kinh tế hậu dầu lửa.

Skolkovo là trọng tâm trong nỗ lực của Medvedev nhằm tạo ra một kiểu nền kinh tế mới. Là một khu vực ngoại ô khó phân loại thời đại Liên Xô và nằm cách Mátxcơva 40km, Skolkovo hiện là nơi có các trường kinh doanh hàng đầu của Nga, mà chủ yếu là của tư nhân nhưng lại nhận được một số khoản tiền của nhà nước chỉ cho nghiên cứu.

Thành phố đổi mới này được lấy cảm hứng từ mối quan hệ giữa Trường Đại học Stanford và Thung lũng Silicon, hay Học viện Kỹ thuật Massachusettsvà các công ty công nghệ Route 128 bên ngoài Boston: nơi những người tài giỏi có thể tìm thấy các nguồn tài trợ của tư nhân và chính phủ mà họ cần để thành lập "các công ty khởi nghiệp".

Ông trùm dầu lửa Viktor Vekselberg, người giàu thứ 10 của Nga và là sự lựa chọn của Medvedev để tổ chức mảng kinh doanh của Skolkovo, nói rằng Skolkovo mới sẽ là "một thành phố tương lai thực sự", lựa chọn những ý tưởng tốt nhất để nhà nước hỗ trợ dưới hình thức các "công ty khởi nghiệp".

Việc xây dựng đang được tiến hành trên một mảnh đất rộng 300ha mà sẽ được bảo vệ bởi tường bao xung quanh và những cánh cổng. Nếu mọi việc theo đúng kế hoạch thì vào năm 2014, thành phố mới này sẽ là nơi cư ngụ của khoảng từ 30.000 đến 40.000 người.

Viktor Ustinov, một nhà vật lý hàng đầu của Nga và là cựu học sinh của Alferov nói rằng Skolkovo sẽ là "Thung lũng Silicon của Nga" chuyên nghiên cứu đổi mới các phương tiện liên lạc và ngành y sinh, cũng như các công nghệ vũ trụ, hạt nhân và thông tin.

Theo Vladislav Surkov, nhà tư tưởng hàng đầu của Cremli nói: "Chỉ những người giỏi nhất mới được đến đó, và họ sẽ được bảo vệ cẩn thận.... những người giỏi nhất sẽ được hưởng những điều kiện đặc biệt tốt nhất".

Nhiều nước cũng đã cố gắng xây dựng Thung lũng Silicon của riêng mình. Những Medvedev, tuy chậm chân hơn, đã tuyên bố rằng dự án này là hy vọng tốt nhất cuối cùng của Nga.

Bản kế hoạch cho nền kinh tế Nga của ông đưa ra năm 2008, được gọi là "Chiến lược 2020", đòi hỏi khu vực công nghệ phải chiếm 15% sản phẩm xuất khẩu, hoặc 8-10% GDP vào năm 2020.

Hiện nay, tỷ lệ này chỉ khoảng 1,1% GDP, và phần lớn là nhờ xuất khẩu vũ khí quân sự hạng nặng. Chính vì vậy, Medvedev đang đổ nhiều tỷ USD trong ngân sách nhà nước vào các dự án bao gồm cả dự án Skolkovo, dự án quỹ đầu tư công nghệ nano lớn nhất thế giới, và một chương trình được tạo ra để lôi kéo những người Nga sống lưu vong và các công ty của họ trở lại quê hương.

Medvedev đã cử các quan chức cao cấp đi vận động để thu hút tiền cho chương trình đổi mới, và đã dành hơn 10 tỉ USD cho đầu tư công nghệ. Con số đó còn lâu mới bằng của những nước khác- Trung Quốc đã cấp 20 tỷ USD cho đầu tư công nghệ chỉ riêng năm 2010- nhưng dù sao nó cũng là một dấu hiệu cho thấy sự nghiêm túc.

Bảo vệ "nước Nga thông minh" bằng cách giết rồng "tham nhũng"


Cơ hội thành công lớn của Skolkovo là các doanh nghiệp của nó sẽ được bảo vệ khỏi các quan chức nhà nước và cảnh sát tham lam. Ngày nay, tiền trợ cáp và các đặc quyền đặc lợi đặc biệt mà nhà nước Liên Xô đã từng hào phóng cấp cho các dự án khoa học và kinh doanh đã dẫn đến các vụ "ăn cắp trắng trợn".

Trong một cuộc điều tra gần đây của PricewaterhouseCoopers về các tội phạm toàn cầu, 71% số doanh nghiệp của Nga bị đưa tin là mục tiêu của những hành động vi phạm như vậy của cảnh sát hay các công chức nhà nước (mức tồi tệ nhất trong số 33 nước trong cuộc nghiên cứu).

Bản thân Medvedev đã công khai chỉ trích văn hóa tham nhũng nhà nước của Nga và đã nỗ lực nhằm tạo nên các bức tường chắn để bảo vệ Skolkovo, điều này sẽ đơn giản hóa các luật về doanh nghiệp, tạo nên một chế độ cấp thị thực đơn giản hơn cũng như những lợi ích về thuế, và sẽ không có một công chức trộm cắp nào.

Vekselberg nói: "Chúng tôi sẽ tạo ra không chỉ một thành phố mới mà còn là những con người mới sẽ sống ở đó- sẽ không có chỗ cho tham nhũng trong thành phố của chúng tôi. Người nào đó phải đưa ra ví dụ về việc Nga có thể thay đổi như thế nào. Chúng tôi phải bắt đầu giết chết con rồng (tham nhũng) bên trong chính chúng tôi.

Nhưng hiện đang có các trào lưu chống lại "nước Nga thông minh", và có thể trong hai thập kỷ tới, tinh hoa giới trí thức của Liên Xô sẽ chết đi, để lại đằng sau một hệ thống giáo dục mục nát. Phần lớn các viện nghiên cứu truyền thống của Nga cách đây rất lâu đã đánh mất nhiều người giỏi nhất của họ vào tay các trường đại học được tài trợ tốt hơn ở phương Tây, và hiện nay không một trường đại học nào của Nga đứng trong top 100 trường tốt nhất của thế giới.

Do nhà nước Nga đã bị các công chức nhà nước tham nhũng sau biến cố hồi đầu thập niên 90, nên tài sản của các thể chế giáo dục đã bị bán hết, bị những người quản lý cho thuê hoặc bị đánh cắp có hệ thống.

Vào năm 2009, đất nước này đã xuất bản số báo và tạp chí mang tính chất học thuật ít hơn so với Ấn Độ hay Trung Quốc, và người Nga đã chỉ đoạt 4 giải Nobel trong thập kỷ qua, so với 76 giải dành cho Mỹ (và chỉ một giải, Giải Nobel hòa bình của Mikhail Gorbachev, vào những năm 1990).

Trong hệ thống thứ bậc các quốc gia có khả năng cạnh tranh nhất thế giới của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Nga đã xuống vị trí thứ 74 trong số 134 nước. Một số doanh nhân của Nga, như nhà thiết kế chương trình diệt virus Yevgeny Kaspersky phàn nàn rằng các tài năng dường như vẫn tập trung một cách lệch lạc vào hoạt động bất hợp pháp, như việc tạo ra loại virus Con ngựa thành Troy mang tên "Storm" tấn công khắp thế giới, làm 1,5 triệu máy tính bị nhiễm hồi năm ngoái.

Kaspersky, chủ sở hữu phòng thí nghiệm Kaspersky (một trong số ít doanh nghiệp công nghệ mang tính toàn cầu của Nga, chuyên nghiên cứu các biện pháp để ngăn chặn các tin tặc) nói: "Nga là một quốc gia của các siêu tin tặc".

putinmedvedev.jpg

Medvedev đang đẩy mạnh sự đổi mới như là một trong bốn trụ cột của chương trình hiện đại hóa​

Dù gì thì kế hoạch của Medvedev nhằm tạo ra một lối thoát hợp pháp cho các tài năng công nghệ là một phẩm chất mang tính Xôviết. Ý tưởng về một thành phố cho các nhà khoa học gợi nhớ lại hình ảnh các thành phố công nghệ được xây dựng có mục đích của Stalin nằm dưới sự điều hành của Gulag, cơ quan quản lý của chính phủ. Đây là nơi các nhà khoa học được tuyển chọn làm việc trong những điều kiện được hưởng đặc quyền- và đã có những phát minh mang tính đột phá chẳng hạn như bom nguyên tử của Liên Xô.

Nhưng Vladislav Inzemtsev, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu hậu công nghiệp đóng tại Mátxcơva, cảnh báo rằng trong thời đại này "bạn không thể có một nền kinh tế đổi mới, kế hoạch và tập trung. Không một nơi nào trên thế giới có một Thung lũng Silicon phát triển nở rộ nhờ vào các sắc lệnh do các quan chức ban hành, cho dù các sắc lệnh này được hậu thuẫn bởi sự tài trợ của chính phủ".

Bản lĩnh của lãnh đạo

Sự thất bại của kế hoạch tập trung không nhất thiết sẽ báo hiệu một thất bại dành cho Solkovo, bởi vì Medvedev được dẫn đường bởi một tầm nhìn hiện đại hơn về việc sử dụng các khoản trợ cấp như thế nào để định hướng sự phát triển kinh doanh.

Đã có một số câu chuyện về sự thành công. Một trong những cựu học sinh của Alferov, Alexei Kovsh, đang chuyển công ty chiếu sáng của ông từ Đức sang St.Pertersburg, bởi vì Alferov thuyết phục ông này rằng ông ta có thể nhận được tài trợ tốt hơn ở Nga, với những chi phí thấp hơn so với ở phương Tây, và có sự bảo vệ tốt trước những kẻ sao chép công nghệ hơn ở Trung Quốc.

Kovsh gần đây đã bán cổ phần trong công ty của ông, Optogan, cho công ty Rusnanotech do nhà nước sở hữu và cho ông vua kim loại Mikhail Prokhorov. Với nhà nước như một bên tham gia thứ ba, Kovsh cảm thấy được bảo vệ. Alferov hy vọng sẽ áp dụng lại kinh nghiệm này để lôi kéo các doanh nghiệp tương tự đến Skolkovo.

Cùng chống lại "nhà nước Nga thông minh" là một số quan chức muốn nước Nga vẫn trong tình trạng "ngu dốt"- bởi vì họ kiếm được quá nhiều tiền từ đó.

Medvedev đang đẩy mạnh sự đổi mới như là một trong bốn trụ cột của chương trình hiện đại hóa của ông, ba trụ cột còn lại là các thể chế, cơ sở hạ tầng và đầu tư.

Nhưng sự thật là ông vẫn chưa đạt được nhiều tiến bộ. Nga mới chỉ xây dựng được thêm 1.000km đường vào năm ngoái, so với 47.000km đường đã được xây dựng ở Trung Quốc.

Cựu nghị sĩ thuộc phe đối lập Vladimir Ryzhkov phàn nàn rằng bốn trụ cột thực sự của chương trình hiện đại hóa của Nga là "sự ảo tưởng, thiếu hiệu quả, không ổn định và không có khả năng".

Yevgeny Gontmakher, thành viên cấp cao của nhóm nghiên cứu được Medvedev ưa thích là Viện phát triển đương đại nói rằng sai lầm trong chiến lược của Tổng thống là "họ mong đợi các nhà khoa học đến và phát minh ra mọi thứ cho họ, chính vì thế sẽ không cần phải cải cách các thể chế chính trị".

Không, Medvedev không quyết tâm cải cách toàn bộ hệ thống chính trị từ trên xuống dưới, nhưng điều rõ ràng là ông thấu hiểu các thế lực ủng hộ một nước Nga "ngu dốt".

Ông đã viết trong bản tuyên bố "Tiến lên nước Nga" của ông vào năm 2009: "Các quan chức tham nhũng... không muốn sự phát triển và lo sợ về điều đó. Nhưng tương lai không thuộc về họ- nó thuộc về chúng ta. Chúng ta sẽ khắc phục được tình trạng lạc hậu và tệ tham nhũng". Có thể nước Nga thông mình sẽ giành chiến thắng.

Newsweek
 
Thommas Friedman: nên chăng cần có Bộ trưởng Bộ khởi nghiệp ?​


Friedman-1.jpg

“Tôi muốn những bộ óc tốt nhất của chúng ta làm giàu từ những công ty mới khởi nghiệp thay vì ra phố Wall và kiếm tiền nhờ đánh cược vào những công ty đang tồn tại.” Tác giả hai cuốn sách “Thế giới phẳng” và “Chiếc Lexus và cây oliu” nhận định

Làm thế nào để kinh tế tư nhân thật sự là động lực để tạo ra việc làm và phát triển kinh tế? Câu hỏi đó thật bất ngờ không chỉ được nêu lên ở Việt Nam lúc này, đó lại cũng là câu chuyện của nước Mỹ trong giai đoạn hiện nay. Ngay cả ở một môi trường kinh doanh tưởng như khuyến khích tư nhân tự do sáng tạo như Hoa Kỳ, vẫn thấy những tiếng kêu cứu rằng chính phủ cần quan tâm, quan tâm và quan tâm hơn nữa tới phát triển các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt các công ty mới thành lập. Tiếng kêu cứu ấy đến từ tác giả của khái niệm “Thế giới phẳng”: Thommas Friedman trong một bài viết gần đây của ông trên tờ New York Times. Nhận thấy bài viết của cây bút bình luận hàng đầu này có rất nhiều gợi mở sáng tạo cho việc thúc đẩy các công ty tư nhân, VNR500 trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc

Nếu bạn có một người con trai hay một cô con gái tốt nghiệp đại học năm nay, có lẽ bạn nên nhớ một điều, khi gặp các tân cử nhân ấy, tốt hơn bạn đừng bao giờ hỏi: “Này, dự định công việc thời gian tới của con thế nào?” Bởi rất nhiều tân cử nhân ấy không có câu trả lời. Họ không thể tìm được việc làm thậm chí chẳng liên quan lắm tới chuyên môn của họ. Khẩu hiệu của họ năm nay sẽ là: “Đừng hỏi nữa, tôi không thể nói gì hết”

Chúng ta đang nợ những người trẻ tuổi một tình trạng khả quan hơn, và giải pháp không quá phức tạp, mặc dầu điều đáng ngạc nhiên là ít thấy Washington thảo luận về nó. Trong khi đó, chúng ta cần chỉ 3 điều thôi: Khởi nghiệp, khởi nghiệp và nhiều hơn nữa những khởi nghiệp

Một công việc tốt đa phần không đến từ khu vực chính phủ. Chúng đến từ những doanh nghiệp dám mạo hiểm chấp nhận rủi ro để khởi nghiệp, những doanh nghiệp ấy khiến cuộc sống của con người lành mạnh hơn, hiệu quả hơn, thoải mái hơn và cũng vui vẻ hơn nữa, với những sản phẩm và dịch vụ được rao bán trên khắp thế giới. Bạn không thể muốn có việc làm mà lại chống lại việc kinh doanh

Hỡi ôi, quan hệ giữa chính quyền Obama và “kinh doanh” hoạ thay chẳng mấy gắn kết. Tôi không nói về phố Wall, nơi xứng đáng được nhận những trừng phạt của Obama. Tôi nói về những con người thực sự sản xuất ra giá trị và bán chúng. Tôi nói về những nhà khởi nghiệp và những người sáng tạo. Nhiều người trong số họ nói với tôi rằng họ đã bỏ phiếu cho Obama, nhưng cũng một số không nhỏ nói rằng họ không hài lòng. Nhiều lời chỉ trích là thiếu công bằng, Obama chưa bao giờ nhận được lòng tin mà ông ấy xứng đáng có vì công lao ổn định nền kinh tế tồi tệ thừa hưởng từ người tiền nhiệm mà không có sự hỗ trợ nào từ phe Cộng Hoà. Nhưng kinh doanh không bao giờ là việc ai đó tăng thuế thu nhập, đặc biệt để trả cho việc chăm sóc sức khỏe của những người khác, kể cả đó là vì lợi ích quốc gia

Vậy nên, tôi nghĩ cộng đồng doanh nghiệp cũng có lý khi phàn nàn về Obama. Mặc dầu có nhiều sáng kiến sáng tạo đã được chính quyền này thực thi, họ chưa bao giờ kết hợp với nhau, đặt ra những ưu tiên và đấu tranh cho điều gì đó dựa trên những nhà lãnh đạo thật sự có kiến thức. Chính quyền này là tập hợp đậm đặc của những học giả, luật gia và các kiểu chính khách. Không có một nhân vật cao cấp nào đã từng điều hành một công ty lớn, xây dựng hay bán một sản phẩm sáng tạo mang tính toàn cầu. Điều đó một phần lý giải tại sao chính quyền chỉ thích thú với việc tăng thuế, chi tiêu cho các mục tiêu xã hội và ban hành luật lệ, họ không thúc đẩy thương mại, cạnh tranh và thành lập công ty mới. Sáng tạo và cạnh tranh dường như không nổi cùng con thuyền của Obama. Ông ấy có thể sử dụng một chiến lược tăng trưởng theo bề nổi

Điều gì còn thiếu trong chính sách của Obama? Tôi hỏi hai người tốt nhất trong lĩnh vực này, Robert Litan, phó chủ tịch nghiên cứu và chính sách tại Quỹ Kauffman, chuyên gia về sáng tạo, và Curtiss Carlson, tổng giám đốc của SRI International, một chuyên gia sáng tạo khác ở Silicon Valley

Carson nói rằng Obama nên bắt đầu bằng việc tạo ra một vị trí trong nội các chuyên thúc đẩy sáng tạo và khả năng cạnh tranh để đảm bảo rằng nước Mỹ luôn “lãnh đạo thế giới về việc thành lập các công ty mới.” Ông “Bộ trưởng Bộ Khởi nghiệp” này nên bắt đầu bằng việc đưa ra những sáng kiến, bao gồm việc giảm thuế thu nhập công ty cho các doanh nghiệp mới mở, giảm chi phí hành chính thủ tục và mở rộng việc miễn thuế cho nghiên cứu và phát triển để khiến cho việc khởi nghiệp rẻ và nhanh hơn. Chúng ta phải gỡ bỏ ràng buộc cho hàng triệu doanh nhân khởi nghiệp.”

Litan thì nói rằng ông muốn đóng thẻ xanh vào văn bằng của mọi sinh viên nước ngoài tốt nghiệp ở Mỹ và thúc đẩy một loại visa mới có ý nghĩa hơn cho tầng lớp doanh nhân nước ngoài (loại EB-5 hiện tạo đòi mỗi doanh nhân nước ngoài phải có 1 triệu đôla, khoản tiền rất ít trong số họ có đủ). Nước Mỹ cũng nên cấp cư trú tạm thời cho bất kỳ người nước ngoài nào đến đây để thiết lập một công ty, và cấp cư trú vĩnh viễn nếu công ty đó tạo ra khoản doanh thu và việc làm nhất định. Litan cũng nói rằng một trong những động thái tốt nhất chúng ta có thể làm là đề ra một kế hoạch ngân sách dài hạn để giải quyết khoản An sinh xã hội và Chăm sóc y tế cho thế hệ tương lai. Điều đó chứng minh cho thị trường trái phiếu thấy rằng chúng ta có một nền tài chính dài hạn để giữ lãi suất thấp và từ đó “khích lệ việc đầu tư tư nhân thay vì giảm thuế.”

Vì thế, tôi còn muốn cắt khoản thuế cho bất kỳ công ty khởi nghiệp làm ăn có lãi nào từ 15% hiện nay xuống còn 1%. Tôi muốn những bộ óc tốt nhất của chúng ta làm giàu từ những công ty mới khởi nghiệp thay vì ra phố Wall và kiếm tiền nhờ đánh cược vào những công ty đang tồn tại. Tôi cũng muốn áp thuế carbon để cân bằng với khoản cắt giảm thuế thu nhập nhân viên và thu nhập doanh nghiệp. Hãy đánh thuế những gì chúng ta không muốn và khuyến khích những gì chúng ta muốn.

“May mắn là, đây là thời điểm tốt nhất để sáng tạo.” Carlson nói vậy, vì 3 lý do: “Đầu tiên, mặc dầu cạnh tranh đang rất khốc liệt, nền kinh tế toàn cầu đang mở ra những cơ hội thị trường mới chưa từng có. Thứ nhì, hầu hết công nghệ (từ khi phát triển dựa vào ý tưởng và hệ nhị phân hơn là dựa vào nguyên tử và cơ bắp) đã tăng trưởng với tốc độ số mũ. Và thứ ba, hai lực lượng trên, thị trường lớn đầy cạnh tranh và công nghệ thay đổi nhanh chóng, sau cùng đang mở ra một cơ hội mới. Đó là một giai đoạn dư giả, không còn khan hiếm nữa, điều đó dựa trên giả định rằng chúng ta làm những điều đúng đắn với một chiến lược vì sự phát triển quốc gia thực sự. Nếu chúng ta không làm thế, thế giới này nhanh chóng sẽ lại trở nên đơn điệu và khan hiếm”
 
Brazil: Từ cường quốc bóng đá tới cường quốc “khởi nghiệp”

Một thế hệ những người trẻ tuổi mang tinh thần kinh doanh đang trỗi dậy ở Brazil, khiến cho đất nước này một điểm đến hấp dẫn thứ hai thế giới cho các nhà đầu tư vốn vào các công ty mới khởi nghiệp

VNR500 giới thiệu câu chuyện về thế hệ doanh nhân mới này ở Brazil để những người Việt Nam trẻ tuổi có khát vọng khởi nghiệp có thêm niềm tin và nỗ lực trên con đường đã chọn của họ

Marcelo Marzola, 33 tuổi, đồng sáng lập Predicta.net, là một ví dụ hoàn hảo cho việc nền kinh tế Brazil, “trị giá” 1,6 nghìn tỷ đôla, đã bắt đầu phát triển nóng như thế nào; và tại sao các doanh nghiệp nước này đang ngày càng nhận được nhiều cuộc gọi từ các nhà đầu tư mạo hiểm mà trước đây vẫn luôn hỏi họ rằng “Các anh từ đâu đến?’

Marzola được mời trình bày về công cụ định vị hành vi mục tiêu miễn phí trên mạng, BTBuckets, tại hội nghị các nhà thiết kế web I/O của Google tại San Francisco tháng 5 vừa rồi. Được trình bày tại hội nghị của Google là mục tiêu của bất cứ nhà thiết kết web nào. Marzola đã nhận được nhiều lời khen ngợi vì đã sáng tạo ra công cụ đã trở thành một tiêu chuẩn thực tế, được sử dụng trên hơn 2.000 trang web trên 90 nước bởi những tập đoàn lớn như Pfizer, Motorola và Unilever. Sản phẩm đã lấp đầy được vị trí vốn bị bỏ sót trước đây trong ngành công nghiệp mạng thông qua việc cho phép các trang web phân nhóm người dùng dựa trên các thói quen online của họ, xác định nội dung mục tiêu và quảng cáo đến người dùng. “Sản phẩm này đã làm thay đổi cả ngành công nghiệp mạng và đã được thừa nhận rộng rãi”, Daniel Waisberg, nhà tư vấn công nghiệp và là cựu giám đốc tiếp thị của Hiệp hội đánh giá Web, cho biết

3doanhnhantrebrazil.jpg

Ba nhà sáng tạo Walter Silva, Marcelo Marzola và Phillip Klein của Predicta.net​


Điểm nổi bật của sản phẩm đã thu hút 10 công ty đầu tư mạo hiểm tìm đến Marzola trong vòng 6 tháng vừa qua. Và những thành tựu mà anh đạt được cũng sẽ khiến họ thấy ấn tượng: Công ty đã tăng trưởng 40% mỗi năm kể từ năm 2005 và lợi nhuận chiếm hơn 20% trong tổng doanh thu 12 triệu đôla. Giờ anh ta đang trong quá trình hoàn tất một vụ làm ăn với DFJ FIR Capital, một công ty đầu tư mạo hiểm địa phương đang quản lý 160 triệu đôla, nhằm nâng giá trao đổi 35% cổ phần từ 15 triệu đôla lên 20 triệu đôla để thực hiện mở rộng công việc làm ăn của công ty. BTBuckets có kế hoạch sẽ mở văn phòng tại các thị trường chính ở châu Mỹ latinh và tại Mỹ

Đối với Marzola, người đã xoay xở vay mượn gia đình và bạn bè 80.000 đôla để làm vốn kinh doanh ban đầu, sự chú ý mà anh mới có được là một dấu hiệu cho thấy các nhà đầu tư mạo hiểm lớn đang chuyển hướng từ Thung lũng Sillicon sang các nền kinh tế đang phát triển như Brazil. “Mười năm trước, khi tôi bắt đầu công việc kinh doanh, việc tiếp cận vốn khởi nghiệp là không thể có được”, anh kể lại. “Khi đó, tôi đã gọi đến 20 ngân hàng, các công ty đầu tư mạo hiểm và cổ phần tư nhân, và tất cả đều từ chối. Không ai muốn mạo hiểm đầu tư vào một công ty còn non trẻ. Sau cùng, giờ cũng đã có những dấu hiệu cho thấy thị trường vốn cổ phần cho các doanh nhân đang bắt đầu phát triển”

Đây là đột phá mà hàng nghìn doanh nghiệp mới của Brazil đang trông đợi. Theo Hiệp hội Vốn mạo hiểm Mỹ latinh (LAVCA), hiện giờ mới chỉ có khoảng 9 công ty/quỹ đầu tư mạo hiểm tham gia, trong đó có Antera, Confrapar, DFJ FIR Capital, Monashees Capital và Status Capital, đang quản lý số tài sản trị giá khoảng 1,9 tỷ đôla. Điều hành những công ty này là những người tiên phong trong việc thúc đẩy tinh thần kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp Brazil, một đất nước vốn không thích chấp nhận rủi ro và được điều hành bởi chính phủ của Tổng thống Luiz Inácio Lula da Silva, vốn chỉ có tố chất láu cá của thứ tư bản mang màu sắc California

Phổ biến phương châm của Thung lũng Sillicon được coi như một nhiệm vụ phải làm. “Vốn đầu tư mạo hiểm là khái niệm mới mà công chúng mới nhận thức được”, Robert Binder giải thích. Ông là CEO của Antera Gestão de Recursos, công ty quản lý tài sản thành lập năm 2004 đang quản lý Quỹ Criatec trị giá 50 triệu đôla, một quỹ cố phần mới thành lập được cấp vốn bởi ngân hàng phát triển Brazil BDNES. Đối với một đất nước mà nhà nước đầu tư rất nhiều vào công nghệ, đây là một sự lắp ghép chồng chéo đáng ngạc nhiên. Có thể nói, 123 viện khoa học quốc gia và 400 cơ sở nghiên cứu rải rác khắp cả nước là những nguồn suối ý tưởng. Nhưng chỉ đến gần đây các CEO từ các tập đoàn tư nhân hạng trung của Brazil mới sẵn sàng chìa tay ra giúp những doanh nghiệp mới đầy hứa hẹn thông qua tư vấn và góp vốn

Sự kịp thời của họ hoàn toàn dễ hiểu. IMF dự báo rằng kinh tế Brazil, nền kinh tế hiện lớn thứ 8 thế giới, sẽ tăng trưởng 7,1% trong năm nay và đạt mức rất cao trong thập kỷ tới. Việc các nhân tố sau đây cùng hội tụ sẽ đóng góp cho tăng trưởng: tài nguyên thiên nhiên phong phú, các chính sách của Chính phủ ổn định, khu vực ngân hàng tinh vi, tầng lớp trung lưu phát triển nhanh và chiếm một nửa trong số 190 triệu dân nước này, sự phát triển của thị trường bất động sản và việc xây dựng cơ sở hạ tầng để chuẩn bị cho World Cup 2014 cũng như Thế vận hội mùa hè 2016

Chuyển biến công nghệ

Một chất xúc tác khác là việc tập trung phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao mang tầm thế giới ở một số lĩnh vực - từ lĩnh vực vũ trụ, kinh doanh nông nghiệp và năng lượng đến công nghệ thông tin, làm thuê theo đặt hàng bên ngoài, chất bán dẫn và viễn thông. “Mục đích là đẩy xuất khẩu của nước này lên bậc cao hơn trong chuỗi giá trị”, Antonio Gil, chủ tịch Brasscom, hiệp hội các công ty IT và viễn thông Brazil giải thích. Ông lưu ý rằng hiện tại Brazil có thể có 1,7 triệu chuyên gia IT. Chính năng lực trí tuệ này đã giúp đất nước thu hút được những công ty đa quốc gia hàng đầu như IBM, trong tháng 6 vừa rồi đã thông báo mở trung tâm nghiên cứu thứ chín tại Brazil và trung tâm đầu tiên ở châu Mỹ latinh

Trong kế hoạch của mình, chính phủ đang đầu tư mạnh mẽ vào những chương trình khích lệ những sáng kiến nội địa liên quan đến những ngành công nghiệp chủ chốt này. Những sáng kiến này - từ diễn đàn đầu tư mạo hiểm đến các khoản trợ cấp nghiên cứu và triển khai (R&D) - đều được chỉ đạo bởi Cơ quan tài trợ các dự án và nghiên cứu (FINEP), bộ phận làm nhiệm vụ đề xuất ý tường của Bộ Khoa học và công nghệ. “Đất nước chúng ta đầu tư 1% GDP cho hoạt động R&D và đứng đầu khu vực trong lĩnh vực doanh nghiệp”, Eduardo Sette Camar của FINEP giải thích, “Giờ cứ 100 dân có 15 người đang bắt đầu tự kinh doanh”


Tiago Lins, giám đốc phát triển kinh doanh và là đồng sáng lập SiliconReef, công ty phát triển một con chip siêu nhỏ thu năng lượng từ môi trường để chạy các thiết bị di động, mạng không dây, là một trong những người hưởng lợi chính từ sự hỗ trợ của chính phủ. Anh ta và cộng sự của mình, CEO Marília Lima, ấp ủ công nghệ đột phá của mình ở CESAR, trung tâm R&D và đơn vị nghiên cứu nổi tiếng ở Recife. Kể từ khi thành lập cách đây hai năm, cặp đôi này đã xin được các khoản tài trợ của FINEP để thiết kế và kiểm tra sản phẩm của mình, được biết với các tên EHOs. Họ đang tìm cách xin thêm 1triệu đôla nữa để đưa sản phẩm ra công chúng. “Hiện tại, trở ngại lớn nhất đối với chúng tôi là việc có được lòng tin từ giới kinh doanh quốc tế”, Lins nói

Nỗ lực phấn đấu vì thành công của Lins là khát khao của nhiều thanh niên Brazil. “Trong năm năm qua, ngày càng có nhiều sinh viên tốt nghiệp say sưa với ý tưởng thành lập doanh nghiệp của riêng mình”, Michael Nicklas nói. Anh là một nhà đầu tư đang điều hành SocialSmart Venturs ở thành phố New York và quan tâm đến các doanh nghiệp Internet mới thành lập ở Brazil. “Hiện tại trong ngành công nghệ có một biển nhân tài chưa được mài dũa. Đất nước này có một trong những cộng động Java, mã nguồn mở và Ruby mạnh nhất thế giới. Thực tế là Internet, mức độ sẵn có của máy tính và các cơ sở dữ liệu mã nguồn mở đã hạ thấp những yêu cầu về vốn trong việc thành lập một công ty công nghệ và tạo cơ hội cho những người làm quản trị mạng tự nghĩ ra các cơ hội kinh doanh”

Nicklas đã lăn lội ở vùng ngoại ô, từ Belo Horizone đến Curitiba to São Paulo, suốt ba năm để tìm cách làm cho đồng tiền của mình sinh lời. Vốn là một người kinh doanh theo chuỗi, anh bị ấn tượng bởi việc áp dụng sớm truyền thông xã hội ở đất nước này. Điều này đã thôi thúc anh đầu tư vào ba công ty mới khác, trong đó có Compra3, công ty phát triển công nghệ nền mua bán duy nhất cho các mạng truyền thông xã hội cung cấp cho người dùng các khoản giảm giá và trả lại tiền mặt, cho phép người dùng được bình luận về sản phẩm. Sau khi mất 150.000 đôla để mua 2,5% cổ phần của công ty, Nicklas đã giúp các nhà sáng lập là Bruno Medeiros và Andre Monteiro cải tiến kế hoạch kinh doanh của họ và chuẩn bị cho chuyến trình diễn trên hè phố trong tháng 8 này tại Mỹ. Hy vọng đặt ra là các công ty đầu tư mạo hiểm sẽ đầu tư 12,5 triệu đôla để mua cổ phần và công ty có thể củng cố mô hình của mình tại Brazil và đột phá vào thị trường Bắc Mỹ. Compra3 đã là đối tác của Walmart và 18 công ty bán lẻ khác của Mỹ latinh, trong đó có Americanas.com. “Nicklas là cầu nối đưa chúng tôi đến với các nhà đầu tư nước ngoài, và chúng tôi cần các mối quan hệ của anh ấy để phát triển lên nấc cao hơn”, Medeiro giải thích. Anh 29 tuổi và đã bắt đầu tự kinh doanh từ năm 19 tuổi.

Những mối quan hệ này đóng vai trò chìa khoá, hiện vẫn tồn tại khoảng cách rất lớn ở Brazil giữa những vòng tài trợ vốn mồi đến những vòng thứ hai và thứ ba của việc cấp vốn đầu tư mạo hiểm có ý nghĩa sống còn đối với tăng trưởng. Thay vào đó, phần lớn các luồng vốn đầu tư lại chảy vào các quỹ chứng khoán tư nhân. Theo LAVCA, hiện có hơn 30 quỹ như thế, quản lý khoảng 12,3 tỷ đôla tài sản. Các quỹ này, ví dụ như quỹ chứng khoán tư nhân Mỹ latinh V trị giá 1,65 tỷ đôla thuộc Advent International đã đóng cửa tháng 5 vừa rồi, chuyên môn hoá trong các vụ bán ra, mua bán sáp nhập và các dự án cơ sở hạ tầng lớn. Nhưng ngay cả khi nguồn vốn rất ít, như trường hợp của Ấn Độ, một đối thủ trong nhóm BRIC, thì họ vẫn tự hào về một thị trường cổ phiếu tư nhân lớn gấp năm lần Brazil.

Những khó khăn

Theo Marcus Regueira, cựu nhân viên ngân hàng đầu tư ở Mỹ và là đối tác sáng lập DFJ FIR Capital, Brazil vẫn phải chấp nhận tình trạng thiếu các luồng vốn và một thị trường cổ phiếu niêm yết lần đầu (IPO) vẫn còn những rào cản đối với sự gia nhập của các công ty nhỏ hoặc vừa. Để tìm khả năng thanh khoản, các công ty đầu tư mạo hiểm phải tìm cách hoà hợp với thị trường nội địa và biết cách tìm được những đối tác chiến lược hay có chiến lược rút lui cho các công ty đầu tư của mình

Một yếu tố cản trở khác là việc thiếu các chuyên gia địa phương biết cách vận hành một công ty cổ phần tư nhân hay một liên doanh trách nhiệm hữu hạn đầu tư vốn mạo hiểm. Đó là lý do tại sao FINEP đang đóng vai trò tích cực trong việc đào tạo giới doanh nhân địa phương về các chi tiết phức tạp để trở thành một đối tác nói chung. Một số doanh nghiệp nước ngoài, như công ty cổ phần tư nhân Advent International, tự làm việc này. Họ thuê những kỹ sư tốt nghiệp loại ưu, cử họ đến đào tạo tại các trường đại học quản lý tại Mỹ để lấy bằng MBA rồi sau đó chuẩn bị đưa họ trở thành đối tác trong công ty. Nhiều người thậm chí còn được cử giữ chức CEO lâm thời

Những dấu vết của quá khứ vẫn còn lưu lại. Thuế và các quy định của Brazil vẫn bị xếp vào nhóm phiền hà nhất trên thế giới đối với kinh doanh. Thuế thu nhập doanh nghiệp là 34% và thuế an sinh xã hội và các khoản đóng góp khác của người lao động khác cộng lại chiếm tới 80-90% lương của một người lao động. Đó là chưa kể đến các khoản thuế đánh vào các khoản vay ngân hàng và luật lao động có phần cổ hủ của Brazil

Với những thách thức như vậy, bất cứ doanh nhân nào có thể xây dựng một công ty và tồn tại được sẽ trở thành một phần trong thế giới thượng lưu. “Điều đó khiến một siêu sao, một người quản lý tài chính tài năng từ chỗ phải ra đi trở thành người chiến thắng trên thị trường”, Regeuira của DFJ FIR nhấn mạnh. “Đó là học thuyết Darwin trong kinh tế”. Gustavo Caetano, người sáng lập và CEO của Samba Tech, một công ty mới thành lập được ba năm đã xây dựng nền tảng để những nhà phát triển mạng thuộc bên thứ ba có thể nhập và phân phối các đoạn ghi hình trên Internet, là một doanh nhân sống sót khác. Chỉ trong vòng ba năm, anh ta đã xây dựng doanh nghiệp của mình từ khoản vay trị giá 100.000 đôla vay của cha mình trở thành một công ty làm ăn phát đạt với 7 triệu đôla mỗi năm và thuê 50 lao động. Công ty đó đã tăng trưởng với tốc độ 300%/năm. “Ở Brazil, bạn cần có một mô hình kiếm lời ngay từ bước đầu. Các công ty đầu tư mạo hiểm sẽ không đợi để xem liệu một ngày kia công ty bạn có đường rút hay không do không muốn rủi ro. Ở Mỹ, một công ty mới thành lập thường được hưởng một số ưu đãi như hoạt động trong vòng hai năm mà không phải đóng thuế. Ở Brazil, chúng tôi không được hưởng những ưu đãi đó”

Hiện có những dấu hiệu cho thấy mọi thứ đang thay đổi theo thời gian. Ngày càng có nhiều các nhà đầu tư mạo hiểm nước ngoài quan tâm đến việc đa dạng hoá tài sản đang nhòm ngó đến Brazil. Họ được thúc đẩy bởi các nhà đầu tư từ thiện, những người đã năm thứ hai liên tiếp xếp đất nước này vào vị trí thị trường đang nổi hấp dẫn thứ hai thế giới, sau Trung Quốc, cho đầu tư cổ phần tư nhân, theo kết quả khảo sát cổ phần tư nhân tại các thị trường mới nổi năm 2010 của EMPEA. “Nhiều nhà đầu tư cảm thấy họ đã quá coi trọng châu Á và đang quay trở lại Brazil”, Alberto Camoẽs, người sáng lập và đối tác quản lý của Stratus Venture Capital, công ty có quỹ cổ phần tư nhân lên đến 300 triệu đôla, cho biết

Điều Brazil cần để chuyển những dòng vốn chảy bên ngoài vào một dòng chảy chung là có được một vụ IPO làm thế giới sững sờ, chứng tỏ cách suy nghĩ đột phá và tính can đảm thực sự của các doanh nhân Brazil. Các nhà đầu tư mạo hiểm trong nước hy vọng rằng điều đó sẽ xảy ra trong vòng hai năm tới – có thể là với một công ty có tiềm năng như Predicta.net

Tiềm năng rất nhiều. Hãy chỉ cần hỏi Great Hill Partners ở Boston. Công ty này mất bốn năm để thu được khoản lợi nhuận trị giá tới 860% tiền vốn đầu tư vào BuscaPé, một công ty cung cấp dịch vụ thương mại điện tử; công ty đã bán 91% cổ phần với giá 340 triệu đôla cho Naspers, một người khổng lồ trong lĩnh vực truyền thông của Nam Phi vào tháng 9 năm ngoài. Nicklas đã tổng kết vụ này như sau: “Các nhà đầu tư mạo hiểm kéo đến từng bầy, và khi họ nhìn thấy mảnh đất màu mỡ, họ xúm vào đặt cược. Giờ họ đã có Brazil trong tầm ngắm”
 
Chi 10 triệu bảng cho công ty trong trường đại học​

Các doanh nghiệp công nghệ cao xuất phát từ các đề tài nghiên cứu và phát triển của các trường đại học Anh đã tạo ra việc làm và sự tăng trưởng cho nền kinh tế.

Đại học gắn với thương mại

Khi nền kinh tế thế giới đang suy thoái thì các trường đại học của Anh lại góp phần làm nên thành công của các doanh nghiệp

images2030566_TruongEdinburg.jpg

Trường đại học Edinburgh​

Tháng 8, người ta công bố Bộ phận nghiên cứu và cải tiến của Trường đại học Edinburgh đã tạo ra 40 doanh nghiệp mới trong năm qua. Trong vòng 5 năm, bộ phận này đã hình thành 131 doanh nghiệp với 300 nhân viên

Khi các doanh nghiệp nhà nước đang phải cắt giảm thì chính phủ Anh mong muốn các doanh nghiệp tư nhân phát triển để bù đắp lại số lượng thất nghiệp từ các công ty nhà nước. Nhưng khó là ở chỗ tìm kiếm nguồn vốn để thành lập doanh nghiệp. Các ngân hàng không thể mạo hiểm cấp tiền, vì thế thông thường tiền sẽ cung cấp cho những đại gia với khoản tiền khởi nghiệp đầu tiên khoảng 100.000 bảng Anh

Nếu các trường đại học có thể thuyết phục bằng các dự án thành lập các doanh nghiệp thì có thể được những đại gia chú ý hoặc ít nhất là có được vốn từ quỹ của thành phố. Khi đó những doanh nghiệp mới có cơ hội được phát triển

Trong vòng 20 năm qua, các trường đại học đã có tư tưởng gắn với thương mại hơn và các dự án mà các giáo sư và sinh viên nghiên cứu được các chuyên gia kinh tế và các hiệu trưởng phát triển và thực hiện.

Các trường đại học tham gia vào kinh doanh có thể bằng cách nắm giữ cổ phần hoặc qua các thoả thuận trong đó cho phép các trường đại học được sở hữu quyền sở hữu trí tuệ

Các công ty do trường Đại học Edinburgh đang tiến hành cải tiến như công ty NGenTec sản xuất máy phát điện cỡ nhỏ cho các tuốcbin chạy bằng năng lượng gió. Công ty đã nhận được 800.000 bảng Anh từ Bộ Năng lượng và Biến đổi khí hậu và hiện nay đang tìm kiếm thêm các nguồn vốn khác

Một nghiên cứu thành công khác của Edinburgh là vi điện tử Wolfson mà chip của nó được sử dụng trong nhiều sản phẩm điện tử mới ra như iPod của Apple.

Chi 10 triệu bảng Anh cho khởi nghiệp công ty trong trường ĐH


Ban Chiến lược Công nghệ (TSB) do Chính phủ Anh tài trợ cho rằng: “có sự trao đổi giữa giới nghiên cứu và doanh nhân là hết sức cần thiết. Các ý tưởng hay cần được thử thách trong thế giới thương mại và các trường đại học đang trở thành một diễn đàn ngày càng quan trọng để hai bên có thể gặp gỡ và trao đổi về các dự án”

Hàng năm TSB chi khoảng 10 triệu bảng Anh vào khởi nghiệp công ty từ các trường đại học

Những bộ phận nghiên cứu và phát triển doanh nghiệp thường chuyên về công nghệ và các ngành công nghiệp “xanh” hay đặt trong các trường đại học hàng đầu

Một trong số các tập đoàn nổi tiếng nhất là Tập đoàn Cải tiến Hoàng gia, một bộ phận của Trường đại học Hoàng gia ở Luân Đôn. Khởi đầu là một bộ phận của trường đại học nhưng năm 2005, tập đoàn này đã bước vào AIM, thị trường chứng khoán dành cho các công ty nhỏ. Trường đại học Hoàng gia có 52% cổ phần trong Tập đoàn này và Tập đoàn đã đầu tư vào 83 công ty hầu hết đều từ các trường đại học

Không thể phủ nhận vai trò của các trường đại học trong việc thành lập doanh nghiệp trong tương lai. Tuy nhiên, để biến những công ty công nghệ cao cỡ nhỏ trở thành những công ty toàn cầu cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Các trường đại học của Anh cũng mong muốn các bộ trưởng liên quan hiểu được điều này và ủng hộ
 
Mỹ có thể cho phép nghe trộm trên Internet​

- Nhà Trắng đang soạn thảo dự luật cho phép các quan chức an ninh quốc gia và thực thi pháp luật nghe lén điện thoại Internet, xem trộm e-mail và những trao đổi trên các website, vì ngày càng có nhiều khủng bố và tội phạm từ bỏ điện thoại truyền thống để giao tiếp online

27256_400.jpg

Người dùng Facebook, Skype… cũng có thể bị nghe trộm​

Theo dự luật dự kiến trình Quốc hội vào năm tới, tất cả dịch vụ trực tuyến cho phép thông tin liên lạc như Facebook (mạng xã hội), Skype (gọi điện qua máy tính), BlackBerry (cung cấp e-mail mã hóa)… sẽ được trang bị kỹ thuật để phục vụ yêu cầu nghe trộm của cơ quan chức năng.
Cụ thể, mọi dịch vụ cung cấp tin nhắn mã hóa phải có khả năng giải mã; mọi nhà cung cấp dịch vụ thông tin liên lạc nước ngoài làm ăn ở Mỹ phải có văn phòng tại nước này có khả năng chặn dịch vụ; các nhà phát triển phần mềm phục vụ dịch vụ liên lạc ngang hàng phải tái thiết kế sản phẩm để cho phép chặn dịch vụ…

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia lo ngại rằng, quy định mới sẽ vi phạm quyền riêng tư của người dân. Ngoài ra, tin tặc cũng có thể lợi dụng điểm yếu của công nghệ để khai thác trái phép dữ liệu trên mạng

Năm nay, Mỹ dành ngân sách 9 triệu USD cho việc nâng cao năng lực giám sát thiết bị điện tử của các cơ quan điều tra. Năm ngoái, Cục Điều tra Liên bang (FBI) cung cấp 9,8 triệu USD cho nhiều nhà cung cấp dịch vụ liên lạc để họ nâng cấp thiết bị nghe lén theo yêu cầu của cơ quan chức năng
 
Tại sao các CEO công nghệ được ngưỡng mộ ?​

- Nếu được hỏi ai là CEO của Coca-Cola, chưa chắc bạn đã trả lời được ngay nhưng nếu hỏi ai là CEO của Apple thì bạn trả lời ngay là Steve Jobs

Những hình tượng được biết đến trên khắp thế giới như Bill Gates và Steve Jobs thường là phần không thể thiếu của thương hiệu công ty mà họ lãnh đạo

Robert Hohman, người đồng sáng lập kiêm CEO của Glassdoor, một trang đánh giá nghề nghiệp cho biết: "Có lãnh đạo mang ý nghĩa biểu tượng là một phần của văn hóa công nghệ"

Một trong những "biểu tượng" đó là CEO của Facebook - Mark Zuckerberg. Mark sẽ thêm phần nổi tiếng khi vào ngày mai, 1/10, bộ phim "The Social Network" (Mạng xã hội) nói về quá trình thành lập và sự ra đời của Facebook ra mắt.

Thông thường, những công ty công nghệ thành công bởi vì họ liên tục đổi mới, tạo ra xu hướng mới. Đổi mới là công việc khó khăn. Đổi mới thường cần một lãnh đạo đủ mạnh mẽ, người có thể nhìn xa trông rộng và dẫn dắt cả công ty lớn theo tầm nhìn đó

Trong các ngành khác, việc thay đổi định hướng có thể được chấp nhận sau mỗi chu kỳ 5 năm. Nhưng trong ngành công nghệ, 5 năm được coi như 5 tháng. Bởi vì lý do đó mà ngành này cần những vị lãnh đạo đủ năng lực sáng tạo và luôn có tinh thần đổi mới.

Trong môi trường trực tuyến, nơi các ý kiến và ý tưởng phát triển với tốc độ chóng mặt, sự trung thành của khách hàng đối với các thương hiệu công nghệ có thể thay đổi rất nhanh

Bạn đang sử dụng MacBook. Bạn yêu chiếc điện thoại iPhone của mình và kết bạn với những người sử dụng BlackBerry. Hoặc bạn yêu điện thoại Android của Google và kết bạn với những người sử dụng iPhone. Phía sau những mối quan hệ cá nhân của người dùng này là cuộc chiến của các thương hiệu

Một số công ty công nghệ nổi tiếng đã tiếp thị và định hướng sản phẩm của họ là những tiến bộ thay đổi cuộc sống, nên những CEO của những công ty đó được công chúng đón nhận chẳng khác nào ngôi sao nhạc Rock

Nếu không có địa vị của một ngôi sao nhạc Rock thì Steve Jobs không thể tạo nên một làn sóng bình luận trên internet mỗi lần ông trả lời email của khách hàng

Và không chỉ Mark Zuckerberg là nhân vật của một bộ phim, những CEO khác trong danh sách 500 CEO nổi tiếng nhất thế giới của tạp chí danh tiếng Fortune có thể là nhân vật chính của một cuốn truyện tranh cho thiếu nhi học tập

Trên website Glassdoor dành cho nhân viên xếp hạng sếp, 97% nhân viên Apple ủng hộ Steve Jobs. CEO của Google - Eric Schmidt nhận được 96% và Zuckerberg sở hữu 95% phiếu bầu

Đối lập với điều đó, Steve Ballmer, CEO của Microsoft chỉ có 51% nhân viên ủng hộ, CEO của Yahoo - Carol Bartz có 53%, và Barry Diller - CEO của tập đoàn Interactive khiêm tốn với 31%

Sự khác biệt là ở chỗ, ngoài việc vẽ nên một viễn cảnh tươi đẹp, người lãnh đạo còn phải biết cách thổi bùng ngọn lửa nhiệt huyết, truyền cảm hứng cho nhân viên để họ theo đuổi viễn cảnh đó

Hiện nay chúng ta nghĩ về Steve Jobs như cách mà ông bà chúng ta đã từng nghĩ về Henry Ford cách đây 90 năm
 
Mạng xã hội và nghệ thuật kinh doanh​

linkedin-logo.jpg

LinkedIn ban đầu là một trang web kinh doanh, tới tháng 5/2003 thì chuyển đổi thành một trang mạng dịch vụ xã hội. Từ đó đến nay LinkedIn đã trở thành một mạng xã hội hỗ trợ đắc lực cho công việc kinh doanh.

LinkedIn: không chỉ là nơi đăng lý lịch kinh doanh

Hai năm trước ngay khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, Joanna Wiseberg mở công ty Red Scarf Equestion, chuyên làm ra những chiếc túi xách kiểu cách và những mặt hàng xa xỉ khác dành cho những người yêu thích bộ môn cưỡi ngựa.

Tuy nhiên, bà Wiseberg đã sớm gặp những người đã mời bà đến để giới thiệu các mặt hàng của bà tại các nơi cao cấp như Liên Hoan Phim Cannes, giải đua xe F1 Monaco Grand Fix và một hội nghị về mặt hàng xa xỉ tại Trung Quốc. Bà nói: ''Hiện tại, Red Scarf Equestion với nền móng tại Toronto đã sẵn sàng cất cánh.''

"Việc kinh doanh của tôi như là "ngách trong ngách" và tôi đã mở công ty vào thời điểm có thể nói là tồi tệ nhất'' - Bà Wiseberg nói - "Nó giống việc bạn cố đẩy quả bóng nặng lên ngọn đồi cao."

Công cụ của bà là LinkedIn - một mạng xã hội cho các chuyên gia kinh doanh được xem như người anh em họ không mấy nổi bật của Facebook. Nhưng khi bà Wiseberg khám phá ra Linkedln thực tế không chỉ là nơi cho những người tìm kiếm việc làm đăng bản lý lịch của mình mà còn hơn thế nữa. "Tôi sẽ không ở đây nếu không có LinkedIn" - bà nói.

Đối với bất cứ một cty nào trong ngành kinh doanh mạng xã hội thì không dễ để sống trong cái bóng của Facebook và Twitter. Với 500 triệu người sử dụng kết nối với bạn bè, trao đổi ảnh, video và các bài báo, hoặc giết thời gian vào các trò chơi trên mạng xã hội, Facebook đã "khóa cửa" lĩnh vực này. Về phần mình, Twitter tạo được "ngách" chắc chắn cho những người quan tâm đến việc truyền bá ý nghĩ của họ qua 140 kí tự trong mỗi tweet.

Nhưng với khuynh hướng thực tế không hề nao núng của mình, LinkedIn đã có mặt trong các phương tiện truyền thông xã hội. Bất cứ ai có nghề nghiệp, kinh doanh hay có tham vọng trèo lên những bậc thang của cty có thể kết nối với 75 triệu người sử dụng mà phần lớn trong số đó là để tìm kiếm việc làm hoặc tuyển dụng các vị trí mới cho công việc.

Nhưng trong năm qua, LinkedIn đã cung cấp một lượng lớn thông tin và các công cụ có thể giúp ích cho người sử dụng của mình, dù họ có làm việc tự do hoặc tại một công ty hay không, nhằm tiến hành nghiên cứu, tìm những khách hàng mới và mở rộng các mối liên hệ và triển vọng kinh doanh của mình. Phần lớn vẫn là miễn phí mặc dù các tính năng cao cấp yêu cầu trả 25, 50 hay 100 đô-la.

Với những người học việc ở LinkedIn, bước đầu tiên là tạo một bản lý lịch - giống như một bản lý lịch liệt kê cả học vấn, kinh nghiệm chuyên môn, kĩ năng. Nhưng bản lý lịch trực tuyến khác với bản lý lịch được in trên giấy tờ.

Sau đó kết nối mạng như thể LinkedIn là một chương trình thương mại lớn. Tìm kiếm những người bạn biết và mời họ trở thành một phần trong mạng của bạn. Những người sử dụng thường xuyên của LinkedIn nói rằng: một sai lầm thường thấy mà những người mới mắc phải là hạn chế mạng xã hội của họ. Vậy bao nhiêu thì đủ?

Không có gì là tuyệt đối nhưng Krista Canfield - một phát ngôn viên của Linkedln - nói rằng: 35 kết nối dường như là con số tối thiểu để tạo nên những đặc tính lan truyền như virus của các mạng xã hội thực sự hữu ích. (Bởi vì trong bất kì mạng xã hội nào, bạn đều không muốn bao gồm cả những người có thể kéo danh tiếng của bạn xuống. Linkendln cho phép bạn làm chệch hướng các lời mời không mong muốn với nút Lưu trữ (Archive). Thế nên không ai biết được họ bị bạn từ chối.)

Một khi bạn đã đi đến đây, rất dễ dàng để tìm kiếm việc làm bằng cách sử dụng công cụ tìm kiếm của cty. Nhưng còn có nhiều cách khác để sử dụng nó giúp để giúp cho công việc của bạn hoặc tìm những nguyện vọng kinh doanh khác.

Có lẽ, những nơi hữu ích nhất để tìm kiếm là hàng triệu trang web của các công ty mà Linkedln đã chiếu theo. Các trang đó sẽ tiết lộ tên của những người gần đây được thuê hay rời bỏ công ty cũng như những người vừa thay đổi vị trí trong cty.

Kết nối và thảo luận kinh doanh sôi nổi nhờ LinkedIn

Bạn sẽ không chỉ có thể xác định đúng người mà còn có thể xem được tất cả những người trong mạng kết nối của bạn - các kết nối trực tiếp của bạn và các kết nối của họ - những người bằng cách nào đó đã liên kết được với đúng người trong cty. Ví dụ, tôi đã nghĩ mình hầu như không biết bất cứ ai ở Oracle và đã tìm thấy 245 người trong mạng kết nối của mình hoặc là đang làm việc ở đó hoặc đã từng làm ở đó. Tất cả những liên hệ đều có tiềm năng hữu ích nếu tôi đang tìm việc ở đó.

Nếu bạn đặc biệt để mắt đến một cty, có thể là Time Warner, Bank of America hay Procter & Gamble, đó là một ý hay để ''follow'' trang LinkedIn của họ. Cũng giống như khi bạn ''follow'' bạn bè hay các doanh nghiệp trên Facebook hay Twitter, bạn sẽ nhận được những cập nhật mới nhất trong nguồn thông tin (news feed) của bạn. Chúng bao gồm thông tin về các cty và các bài đăng về việc làm, cả các cập nhật khi mọi người được thuê, rời hay chuyển phòng, cũng như bất kì hoạt động nào trong mạng của bạn được kết nối với cty.

Các trang web của công cũng tốt cho các loại tìm kiếm khác. Một module gọi là "các công ty liên quan" hiển thị các con đường tìm việc làm điển hình. Ví dụ, trang của Johnson & Johnson cho thấy "người khổng lồ" trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe đã thuê nhiều người trước đó đã làm ở Pfizer hơn những người từng làm ở bất cứ cty nào khác. Và khi họ rời cty, những điểm đến phổ biến nhất là Merk và Novartis.

Điều đó có thể cho bạn ý tưởng làm thế nào để hoạch định con đường sự nghiệp của bạn hoặc có thể giúp bạn khám phá một chút hiểu biết về công ty. Đó là một bước đệm đến công ty mà bạn muốn dừng lại.

(LinkedIn. Ảnh: NYTimes)
Các thông tin hữu ích khác về công ty bao gồm tỷ lệ phần trăm các nhân viên nghiên cứu và phát triển hoặc doanh số bán hàng và tiếp thị so với các cty tương tự. Điều đó có thể có ích cho bất kỳ ai đang cố gắng tìm ra những loại cơ hội nào có nhiều khả năng để tiếp cận và có ích trong việc chuẩn bị cho buổi phỏng vấn.

Các dịch vụ cao cấp cho phép bạn xem được ai đã xem lý lịch của bạn và những từ khóa mà họ dùng để tìm ra nó. Chúng cũng cho phép bạn xem được những bản lý lịch mở rộng của những người ngoài mạng kết nối của bạn hoặc kiểm tra những mối liên hệ về những người mà bạn đang thuê.

Nhưng bất kì ai đang cố sử dụng LinkedIn một cách hiệu quả sẽ muốn làm nhiều hơn là chỉ rình mò xung quanh. Chủ động trên các trang web có thể giúp bạn nhận được sự chú ý từ người khác.

Những cập nhật trạng thái hoạt động giống như trên Facebook hay Twitter, mặc dù việc cho các mối liên hệ về chuyên môn của bạn biết rằng bạn vừa mới nghỉ việc ở Starbucks có lẽ là không hữu ích. Joe Rosenberg - một kế toán được cộng đồng công nhận ở Florham Park, N.J - nói rằng: Gần đây ông ấy đã dùng cập nhật trạng thái để cảnh báo mọi người rằng hạn cuối cho những người làm việc tự do để lập tài liệu thanh toán thuế ước tính hàng quý sắp đến. "Mọi người đã chú ý đến nó", Rosenberg nói - "Nó có thể là một lời nhắc nhở cho mọi người để gọi cho bạn", ông nói thêm.

Ngài Rosenberg cũng thường xuyên trả lời các câu hỏi về vấn đề thuế. Những điều đó cùng với sự tham gia của ông trong các nhóm khác nhau dẫn đến kết quả thu được 10.00 đến 15.000 đô-la từ những khách hàng mới mà ông tìm thấy trên LinkedIn trong năm ngoái - ông nói.

Bà Wiseberg cũng có sự tiếp cận tương tự để đưa Red Scarf Equestion phát triển. Bà đã ở trên trang LinkedIn nhiều năm nhưng chưa bao giờ thực sự học học cách sử dụng trang web. Khi bắt đầu công việc kinh doanh, bà bắt đầu tham gia các nhóm liên quan đến lĩnh vực của mình và tham gia vào những cuộc thảo luận về chúng. Bà hiện tại là một thành viên của hơn một tá các nhóm bao gồm Những chuyên gia về phong cách sống và đời sống xa xỉ (Luxury and Lifestyle Professinals), Nhóm những người nghiện lối sống xa hoa (Luxury Addict Group), Từ phụ nữ đến kinh doanh hướng đến phụ nữ (Woman 2 Woman Business) và Những người yêu ngựa trong giới kinh doanh (Horse Lovers of the Business World).

Thông qua những sự gia nhập này mà những người khác trong ngành công nghiệp phát hiện ra bà và bắt đầu mời bà đến các sự kiện ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu Á

"Tôi phải đi khắp thế giới bởi thị trường ở Canada quá nhỏ", Wiseberg hồ hởi nói
 
Việt Nam đang chậm chân ở thị trường công nghệ​

Chỉ đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ về mức độ hấp dẫn của thị trường cũng như tiềm năng phát triển, nhưng trên bản đồ công nghệ thế giới VN vẫn là một điểm trũng

Tại Hội nghị thương mại công nghệ 2010 do Quỹ đầu tư mạo hiểm IDG, Quỹ công nghệ DFJ VinaCapital và Công ty Savvi tổ chức (ngày 13 và 14-10), nhiều chuyên gia cho rằng VN có đủ các yếu tố để phát triển lĩnh vực công nghệ, vấn đề cần là sự kích thích đúng hướng

Thứ trưởng Bộ Thông tin - truyền thông Trần Đức Lai khẳng định với các nhà đầu tư tương lai: “VN xác định ưu tiên lớn cho phát triển ngành công nghệ nói chung, công nghệ thông tin nói riêng. Sắp tới sẽ có những bước đột phá như thành lập 15 khu phát triển công nghệ thông tin tập trung và quỹ cho công tác đào tạo công nghệ thông tin...”

Chỉ trong vòng sáu tháng đã sang VN bốn lần, ông Arthur Trueger - chủ tịch Công ty Berkeley International Capital - nhận xét VN có thừa tiềm năng hơn Singapore trong việc kết nối với các nhà đầu tư công nghệ ở Thung lũng Silicon (Mỹ) nhưng đang chậm chân

“Hiện vẫn còn quá ít các quỹ đầu tư mạo hiểm trong khi thị trường cực lớn. Chúng tôi chuyên tìm kiếm các công ty nhỏ và giới thiệu cơ hội đầu tư cho các tập đoàn công nghệ lớn như Intel, IBM, Cisco... Nhưng chính sách của VN trong hoạt động đầu tư này chưa rõ ràng” - ông Arthur nói

Dịp này, IDG và DFJ VinaCapital đã ký thỏa thuận hợp tác, đầu tư và đào tạo với Khu công nghệ cao Hòa Lạc. Ông Nguyễn Bảo Hoàng - tổng giám đốc Quỹ đầu tư IDG VN - cho biết trước mắt sẽ chuẩn bị một khoản đầu tư 10 triệu USD để đầu tư vào các doanh nghiệp trẻ trong khu công nghệ cao này
 
Hàn Quốc chạy đua phát triển năng lượng mặt trời​

6298_nang-luong-mat-troi.jpg

Nhà máy của Millinet Solar, một trong những công ty sản xuất pin năng lượng mặt trời lớn tại Hàn Quốc​

Các công ty Hàn Quốc đang tăng tốc nhằm giành chỗ đứng trên thị trường năng lượng mặt trời thế giới trị giá 35 tỉ USD

So với các đối thủ trong ngành năng lượng mặt trời, các tập đoàn công nghệ Hàn Quốc đang tụt lại phía sau. Trong khi đó, những lĩnh vực kinh doanh truyền thống của họ như sản xuất chip và màn hình LCD đang bão hòa, biên lợi nhuận không ngừng thu hẹp và các đối thủ đến từ Nhật hay Đài Loan đã tiến một bước dài trong kỷ nguyên công nghệ xanh

Lao vào M&A

Theo chuyên gia phân tích Mark Jee đang làm việc tại Solar & Energy (Hàn Quốc), một viện nghiên cứu thị trường quang điện, thị phần của các công ty Hàn Quốc trong lĩnh vực sản xuất pin quang điện sẽ tăng gấp đôi so với một năm trước, đạt 4,7% vào cuối năm 2010. Đó là một con số rất đáng khích lệ nhưng vẫn còn rất khiêm tốn nếu so sánh với 35% của Trung Quốc, nước sản xuất pin quang điện lớn nhất thế giới, hay 14% của Nhật và 13% của Đài Loan

Để bắt kịp đối thủ, các tập đoàn Hàn Quốc vừa phải nỗ lực gia tăng công suất sản xuất, vừa phải tiến hành mua bán và sáp nhập (M&A) ở khắp nơi. Ông Lee Kun-hee, Chủ tịch Samsung, nói rằng, phần lớn sản phẩm và lĩnh vực hoạt động hiện tại của Tập đoàn sẽ biến mất trong 10 năm tới. Vì thế, Tập đoàn rất cần một sự khởi đầu mới

Đầu năm 2010, một nhóm công ty do Samsung đứng đầu cho biết sẽ đầu tư 6,8 tỉ USD tại Ontario (Canada) để xây 4 nhà máy phong năng và quang năng đạt tổng công suất 500 mW vào năm 2016

Hồi tháng 8, Hanwha Chemical, đơn vị thuộc tập đoàn lớn thứ 4 Hàn Quốc Hanwha, đã bỏ ra 370 triệu USD để mua lại 50% cổ phần của Solarfun Power Holdings, công ty sản xuất pin quang điện Trung Quốc. Một tháng sau đó, Hãng thép Posco đã công bố kế hoạch mua lại Elkem, công ty sản xuất silicon dùng làm tấm pin năng lượng mặt trời của Na Uy

Thách thức

Các khoản đầu tư khổng lồ trên sẽ không thể mang lại lợi nhuận trong một sớm một chiều cho các tập đoàn Hàn Quốc khi chặng đường phía trước còn rất nhiều cam go. Một mặt, các công ty Hàn Quốc phải sản xuất được tấm pin quang điện có hiệu suất cao để cạnh tranh với đối thủ. Mặt khác, giá phải thấp để thu hút khách hàng, bởi những sản phẩm giá rẻ của Trung Quốc và Đài Loan đã và đang chiếm lĩnh thị trường

Là kẻ chậm chân, các công ty Hàn Quốc cần những khoản đầu tư khổng lồ, đồng thời phải huy động mọi nguồn lực để xây dựng dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh. Tuy nhiên, Ahn Hye-young, nhà nghiên cứu thuộc Học viện Tài chính Hana ở Seoul, nhận định: “Các công ty Hàn Quốc có thừa tiềm lực tài chính cũng như khả năng phát triển, sản xuất, nâng cao chất lượng và kinh doanh các sản phẩm năng lượng mặt trời”
 
Vì sao các sếp Google lần lượt đầu quân Facebook ?​

Dường như sức hấp dẫn của Google đang sa sút trước “lính trẻ” Facebook khi ngày càng nhiều lãnh đạo cao cấp của Google cập bến mạng xã hội này.

Lần đầu tiên, Lars Rasmussen, tác giả dự án Google Maps đã giải thích lý do ông quyết định chấm dứt sự nghiệp 6 năm ở Google và gia nhập nhóm “những người Google đầu quân cho Facebook”.

“Rõ ràng Facebook đã thay đổi cả thế giới, nhưng vẫn còn rất nhiều điều cần làm ở đó”, Rasmussen nói trong cuộc nói chuyện mang tính cá nhân với đồng sáng lập Facebook Mark Zuckerberg. “Tôi nghĩ đó đúng là nơi dành cho tôi”.

Với hơn 500 triệu thành viên trên toàn cầu, Facebook (FB) đã trở thành điểm đến nóng nhất của Internet, còn Zuckerberg, mới 26 tuổi, đã là tỷ phú trẻ nhất nước Mỹ.

Rasmussen rời khỏi Google từ hôm thứ Sáu (29/10) vừa qua và chuyển đến trụ sở của FB ở San-Francisco từ tháng 11.

Đại diện của FB cũng đã xác nhận “Rasmussen sẽ tham gia vào nhóm kỹ sư FB để thiết kế ra những công nghệ có tác dụng biến đổi cả thế giới”.

Alan Noble, giám đốc kỹ thuật của Google Australia, nói: “Lars đã có những đóng góp to lớn cho các sản phẩm sáng tạo của Google như Google Maps và Google Wave”.

Quyết định ra đi của Rasmussen được đưa ra chỉ chưa đầy 2 tháng sau khi Google nói sẽ loại bỏ dự án yêu thích của Rasmussen về Google Wave.

Wave đã được đồng sáng lập Sergey Brin của Google ủng hộ khi nó được trình bày vào tháng 5 năm ngoái. Dù có nhiều đặc điểm ấn tượng, Wave vẫn không hấp dẫn được toàn thể Google.

Rasmussen cho rằng một khi tính mới lạ bị mai một, công ty sẽ bắt đầu mất đà và mất người sử dụng. “Đó không phải là điều tôi muốn đánh cược cả cuộc đời mình. Tất cả những gì hấp dẫn chúng tôi tạo ra khi lần đầu tiên tiết lộ về dự án đều dựa trên thực tế”, Rasmussen nói. “Tất nhiên, phải mất thời gian để cái mới và cái khác lạ tìm được chỗ đứng, và tôi nghĩ Google đã không kiên nhẫn”.

Rasmussen cùng với 3 anh em của ông đã sáng lập và sau đó bán lại Google Maps cho Google vào năm 2004. Bộ tứ này đã lập nên những gì cốt lõi nhất của nhóm Google Wave.

Rasmussen nói một trong những vấn đề khó nhất trong quyết định của ông là phải rời bỏ “những con người siêu, siêu thông minh” trong nhóm Wave và ngôi nhà bên bến cảng của ông ở Sydney.

Rasmussen nói một lý do nữa để ông ra đi là Google đang trở nên quá khó kiểm soát vì quy mô to lớn của “người khổng lồ”. Còn quy mô nhỏ của FB sẽ giúp ông dễ dàng gây ảnh hưởng hơn và đưa mọi thứ hoàn thành tốt hơn.

Google có 25.000 nhân viên trong khi FB chỉ có khoảng 2.000 người.

“Nguồn năng lượng ở Google quả thực rất đáng kinh ngạc nhưng nó lại rất thách thức để làm việc trong một công ty quy mô cỡ như Google”, Rasmussen nói.

Ông còn cho biết thêm: “Một phần lý do tôi đến với FB là ở đó có những con người đặc biệt từng làm việc cho Google trước đây. Đó là những người tôi rất thích làm việc cùng và thật thú vị là nay họ cũng có mặt ở FB”.

“Hội những người Google chạy sang Facebook”


Năm ngoái, Douglas Bowman - nhà thiết kế nổi tiếng của Google cũng đã ra đi.

Ông phàn nàn trong một blog rằng công ty trở nên quá ám ảnh với những dữ liệu và các chi tiết vụn vặt: “Gần đây, tôi đã phải tranh luận về việc đường viền nên để 3, 4 hay 5 pixel và bị yêu cầu phải giải trình lý do. Tôi không thể hoạt động trong một môi trường như thế được”.

2 cựu nhân vật cấp cao khác của Google cũng đang làm việc tại FB là Bret Taylor, hiện giữ chức Giám đốc công nghệ và Carl Sjogreen với vai trò quản lý nền tảng.

Taylor và Sjogreen đã làm việc với Rasmussen về dự án Google Maps trong những ngày đầu tiên.

Sjogreen sau đó còn tham gia dự án Google Wave.

Rasmussen, cùng với Taylor và Sjogreen là một phần của cộng đồng các “cựu Google” (được gọi là “Xooglers”) tại Facebook với khoảng 20% nhân sự của Facebook từng làm việc cho Google.

Những “cựu Google” điển hình khác có thể kể đến là giám đốc điều hành Sheryl Sandberg; kiến trúc sư Matthew Papakipos của Google Chrome; Erick Tseng, người quản lý sản phẩm Android.

Ngay cả giám đốc điều hành một thời của Google là Josef Desimone cũng đã có mặt tại trụ sở Palo Alto của FB.

Một lý do nữa để các Xooglers nhận lời mời của FB là “nó quá tốt nên không thể chối từ”. Rasmussen nói rằng đề nghị của FB “hấp dẫn cả về tài chính lẫn công việc”.

Mặc dù ông không tiết lộ chi tiết, song những công ty mới 6 tuổi đời như FB sẽ cung cấp cho nhân viên mới các lựa chọn về quyền mua cổ phần. Dựa trên những đánh giá hiện tại, FB giá trị hơn 30 tỷ USD.

Khi công ty niêm yết chứng khoán trên sàn giao dịch, những quyền chọn mua này có thể biến nhiều nhân viên của họ trở thành các tỷ phú
 
Google ra sức giành giật nhân tài với Facebook​

GoogleFacebook_260.jpg

Cuộc chiến giữa Google và Facebook​

"Đại gia” tìm kiếm trực tuyến Google ra sức chạy đua với mạng xã hội ảo Facebook trong cuộc chiến giành nhân tài

Chịu ảnh hướng bất lợi vì cư dân mạng có xu hướng dành nhiều thời gian hơn cho Facebook, “đại gia” tìm kiếm trực tuyến Google còn phải ra sức chạy đua với mạng xã hội ảo này trong cuộc chiến giành nhân tài

Theo Reuters, cách đây ít ngày, Google đã công bố trong nội bộ kế hoạch tăng lương 10% trong năm tới. Đây có thể được xem là một nỗ lực của công cụ tìm kiếm số 1 thế giới nhằm ngăn làn sóng ra đi của các kỹ sư và quản lý khỏi công ty này tới những công ty đối thủ khác có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn như Facebook

“Google không còn là một ông chủ hấp dẫn tuyệt đối đối với những nhân tài hàng đầu nữa. Giờ đây, Facebook đang thu hút nhân tài hàng đầu và ngày càng khó để Google giữ người”, ông Colin Gillis, nhà phân tích thuộc công ty BCG Partners, phát biểu

Google hiện chiếm thị phần khoảng 2/3 trên thị trường tìm kiếm trực tuyến, đồng thời đạt doanh thu 24 tỷ USD từ lĩnh vực quảng cáo qua tìm kiếm trong năm 2009. Tính tới cuối tháng 9 vừa qua, Google có tổng số 23.000 nhân viên. Tuy nhiên, với việc các mạng xã hội ảo đã phát triển bùng nổ và bắt đầu cân bằng lại quyền lực trong ngành công nghiệp Web, một thế hệ những công ty Internet mới bắt đầu sinh ra một lực hút mạnh đối với các kỹ sư và nhà quản lý sản phẩm làm việc tại Silicon Valley

Đối với nhiều người tài, cơ hội làm việc tại một công ty có quy mô nhỏ hơn Goolge và nhận được những khoản thưởng quyền chọn cổ phiếu hấp dẫn trước khi công ty đó phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) đem đến một sức hấp dẫn mà Google khó có thể mang lại

"Người ta xem các mạng xã hội là môi trường làm việc thú vị và giàu sức sáng tạo, những điều mà họ nhận thấy đang dần giảm đi ở lĩnh vực tìm kiếm, mặc dù bản thân lĩnh vực tìm kiếm cũng thú vị và dễ kiếm tiền”, ông Dave McClure, nhà sáng lập công ty đầu tư 500 Startups, cho biết. Startups đã hỗ trợ cho nhiều công ty mạng xã hội mới thành lập

“Đối với một số người, tôi không cho là họ cần tiền hay cổ phiếu. Cái họ muốn là cơ hội làm việc cho những doanh nghiệp mới thành lập có tốc độ tăng trưởng nóng. Đó có thể là Facebook, Zynga, hoặc Twitter”, ông McClure cho hay

Đầu tháng 11 này, kỹ sư Lars Rasmussen của Google đã chuyển sang làm ở Facebook. Trả lời phỏng vấn tờ Sydney Morning Herald, ông Rasmussen nhận xét, Facebook là một công ty “có một không hai trong thập kỷ”, đồng thời nhấn mạnh rằng, làm việc tại một công ty có quy mô như Google là “rất nhiều thách thức”

Rasmussen, một trong những người đã sáng tạo nên Google Maps, là nhân vật gần đây nhất trong số những người rời khỏi Google để sang làm cho Facebook. Giám đốc hoạt động (COO) của Facebook là Sheryl Sandberg, người đứng đầu bộ phận di động của Facebook là Erick Tseng, và Phó chủ tịch chịu trách nhiệm quảng cáo và hoạt động toàn cầu của Facebook là David Fischer đều từng là “công dân” ở “vương quốc” Google

Google hiện đang phát triển những tính năng mạng xã hội mới để tích hợp vào các sản phẩm của mình, qua đó cạnh tranh với Facebook. Hồi tháng 9, Giám đốc tài chính (CFO) Patrick Pichette của Google đã nhận định rằng, công ty này đang ở giữa một “cuộc chiến giành nhân tài” trong ngành công nghiệp Internet

Theo một nguồn tin, hôm thứ Ba tuần này, Google sẽ thực hiện tăng lương 10% kể từ tháng 1/2011, áp dụng cho tất cả nhân viên, không kể nhiệm vụ và nơi công tác. Ngoài ra, Google cũng sẽ thưởng cho mỗi nhân viên 1.000 USD vào kỳ nghỉ

Tuy nhiên, một số người trong ngành nhấn mạnh, quan niệm cho rằng Google là một công ty đã chín muồi và ổn định về tài chính, cùng với những chế độ đãi ngộ của công ty này như cung cấp bữa ăn miễn phí cho nhân viên, vẫn sẽ tạo hấp lực mạnh đối với nhiều nhân viên, đặc biệt là những người ở độ tuổi 30-40 phải lo toan cho gia đình và phải trả tiền vay mua nhà

Ngoài ra, theo ông Rick Girad thuộc công ty tuyển dụng Girard Richardson, việc có tên Google trong danh sách những công ty từng làm việc được xem là một “điểm cộng” quan trọng cho nhiều người

Để gia tăng sức mạnh, Google cũng đã thực hiện một chiến dịch mua lại quy mô lớn, và đã mua 20 công ty từ đầu năm tới nay. Với khoảng 33 tỷ USD tiền mặt trong tay, Google có đủ khả năng trả lương xứng đáng cho những nhân viên tài năng. Bên cạnh đó, một số nhà phân tích cũng chỉ ra rằng, việc tăng lương 10% là một bằng chứng cho thấy Google đang ăn ra làm nên

Theo một báo cáo của Barclays Capital, mức tăng lương 10% sẽ khiến Google phải chi thêm 400 triệu USD trong chi phí lương thưởng của năm 2011

Mặc dù vậy, động thái tăng lương này có đủ để giảm bớt lực hút từ Facebook và các công ty khác đối với nhân viên của Google hay không là câu hỏi chưa thể được trả lời ngay mà cần có thời gian
 
Người tiên phong kiểm thử phần mềm​

- Halliburton - tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới - vừa tài trợ 1.890 bản quyền phần mềm dầu khí Landmark trị giá 60 triệu USD cho Trường ĐH Bách khoa (ĐHQG TP.HCM). Làm mai mối cho hợp đồng tài trợ này là chủ tịch Tập đoàn LogiGear Nguyễn Quốc Hùng, người tiên phong trong lĩnh vực kiểm thử phần mềm

Hung.jpg

Ông Hùng và cây guitar trong giờ giải lao tại hội nghị VISTACon về kiểm thử phần mềm​

Đến Mỹ năm 1982, Nguyễn Quốc Hùng bước vào ĐH chuyên ngành kiểm định chất lượng. Ông tự nhận mình đã rất may mắn khi được sống tại Silicon Valley, được gặp gỡ, làm việc với rất nhiều người giỏi, tiếp cận được nhiều sản phẩm rất mới, được thử thách ở nhiều vị trí như quản lý lập trình, quản lý đội ngũ tại các tập đoàn rất lớn sau này như Electronic Art, Palm Computing...

Tác giả sách "best-seller"

Tìm lỗi và thẩm định

Chiếm 30-40% trong quy trình phát triển phần mềm, kiểm thử phần mềm là khảo sát thực tiễn sản phẩm, dịch vụ phần mềm trong đúng môi trường sẽ triển khai nhằm tìm kiếm các lỗi hoặc thẩm định xem hệ thống phần mềm có đáp ứng các yêu cầu hay không để bảo đảm tối ưu hiệu quả làm việc.

Nghề kiểm thử đòi hỏi tính cẩn thận, tỉ mỉ, sự trung thực bởi nắm được những lỗ hổng của công nghệ, sản phẩm mới.

Cuối thập niên 1980, ngành công nghiệp máy tính Mỹ thiệt hại hàng tỉ USD mỗi năm bởi các lỗi lập trình. Kiểm định phần mềm ra đời và còn thô sơ, các chuyên gia kiểm định đều chú trọng vào tiến trình kiểm định ứng dụng từ phần cứng sang phần mềm.

Đã làm về phần cứng nên ông Hùng hiểu hướng đi này sai, bèn viết sách khẳng định kiểm thử phần mềm là như thế nào. Bộ sách đầu tiên Kiểm thử phần mềm máy tính ông viết chung với Cem Kaner và Jack Falk đã bán được 100.000 bản, trở thành sách best-seller trong suốt tám năm liền trên toàn cầu.

Khi người ta bắt đầu nhìn thấy vị trí quan trọng của kiểm thử, năm 1993 ông Hùng thành lập Trường ĐH LogiGear chuyên đào tạo về kiểm thử. Vừa giảng dạy ông vừa viết các bộ sách khác như Thảo luận về kiểm thử phần mềm dành cho các nhà lãnh đạo được giới chuyên môn đón nhận với đánh giá rất cao.

Một năm sau, Công ty LogiGear ra đời chuyên cung cấp dịch vụ kiểm thử phần mềm. Không hài lòng với kết quả đạt được, ông tiếp tục phát triển lĩnh vực kiểm thử phần mềm theo hướng tự động hóa. Rất nhanh chóng, LogiGear đã trở thành công ty hàng đầu thế giới về kiểm thử phần mềm. Khách hàng của LogiGear là những công ty thuộc Fortune 500 như Google, Cisco, McAfee... Ông Hùng được mời đi huấn luyện về kiểm thử phần mềm ở khắp nơi.

“Tôi chọn Việt Nam”

Năm 2001, khi kinh tế Mỹ suy thoái, LogiGear mất rất nhiều hợp đồng và mất đến 80% doanh số chỉ trong vòng một năm. “Các doanh nghiệp đều theo hướng đi tìm các thị trường tiềm năng để thuê gia công. Người ta đề nghị tôi đến Ấn Độ, nhưng tôi chọn VN” - ông Hùng nói.

Sau 20 năm xa xứ, ông Hùng đã về VN tuyển chọn nhân sự cho dự án xây dựng trung tâm kiểm thử tự động hóa. LogiGear VN được thành lập năm 2005. Ông Hùng chia sẻ: “Tôi muốn đẩy mạnh ngành kiểm thử phần mềm ở VN để người ta thấy VN là một mảnh đất tuyệt vời”.

Năm 2006, ông bắt đầu hợp tác với các trường ĐH để đào tạo nhân lực. “Tôi muốn khi người ta cần lập trình viên giỏi thì đến Ấn Độ, Trung Quốc, còn kiểm thử giỏi thì đến VN” - ông Hùng tự tin. Khởi đầu từ sự hợp tác với Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG TP.HCM), đến nay đã có rất nhiều trường ĐH trên toàn quốc đưa kiểm thử phần mềm vào chương trình học ngành công nghệ thông tin theo chuẩn của LogiGear.

“Để ngành kiểm thử phát triển phải tạo ra một cộng đồng giỏi nghề và tiếp thị ra thế giới”. Nói là làm, ông Hùng lên kế hoạch tổ chức hội nghị quốc tế VISTACon về kiểm thử phần mềm. “Sự kiện này tạo cơ hội tiếp cận với các chuyên gia giỏi của thế giới, đồng thời quảng bá cho người nước ngoài thấy VN có những con người rất tài”. Sau hơn một năm chuẩn bị và thực hiện, VISTACon 2010 đã thành công hơn mong đợi.

Nói về tiềm năng của ngành kiểm thử phần mềm ở VN, ông Hùng lạc quan cho biết TP.HCM thuộc sáu thành phố phát triển nhất thế giới về ngành này, trong khi thị trường kiểm thử phần mềm toàn cầu có tổng giá trị mỗi năm ước chừng 13 tỉ USD. Nghề này nếu được đào tạo đúng bài bản sẽ phát triển rất nhanh, thu nhập cũng khá...

Sau VISTACon 2010, ông Hùng lại vội vã với một kế hoạch đi lưu diễn nhạc jazz ở Tây Ban Nha. Có lẽ ít người biết ông chủ LogiGear là tay đàn guitar và vocal trong dàn nhạc nổi tiếng San Francisco Bay Jazz. Ông nói vui không thể bỏ nghề đàn vì đã nuôi ông khi dotcom khủng hoảng

Mang phong cách tùy hứng và ngẫu hứng ứng biến của nhạc jazz vào xử lý công việc là lời tự nhận xét của ông Hùng. Nhưng những người đã tiếp xúc với ông, đối tác, nhân viên đều có nhận xét chung rằng ông là một người rất chu toàn và uy tín trong công việc. Triết lý sống của ông thật đơn giản: làm hết sức cho điều mình muốn làm. Nhìn lại chặng đường đã qua ông bảo ông rất hạnh phúc với con đường đã chọn
 
Đầu tư mạo hiểm 5 triệu USD để “nuôi” bạn bè trên Facebook​

- Quỹ đầu tư mạo hiểm của thung lũng Silicon - Kleiner Perkins vừa bỏ ra 5 triệu USD tài trợ chương trình nghiên cứu “Quản lý mối quan hệ thân hữu trên mạng xã hội” của tiến sĩ Vũ Duy Thức cùng hai đồng sự

464322.jpg

Vũ Duy Thức và hai người bạn cùng sáng lập CafeBots​

Năm tờ báo và website ở Mỹ cùng đưa tin sự kiện này. Từ Mỹ, tiến sĩ Vũ Duy Thức (sáng lập, đồng chủ tịch Công ty CafeBots, đang làm việc tại Đại học Stanford, Mỹ) dành cho Nhịp sống trẻ một cuộc trò chuyện

Vũ Duy Thức là học sinh Trường phổ thông Năng khiếu ĐH Quốc gia TP.HCM, đi du học ở Mỹ từ năm 2001. Ngày 14-6-2010, anh trở thành tiến sĩ ĐH Stanford, Mỹ

* Thưa anh, vì sao lại là dự án “quản lý mối quan hệ thân hữu trên mạng xã hội” ?

- Hình dung một cách đơn giản trên mạng Facebook: số liệu thống kê cho thấy trung bình mỗi người sẽ có khoảng 500 người bạn. Còn đối với nhiều người khác con số này có thể lên đến cả ngàn, thậm chí vài ngàn, và không phải ai bạn cũng dành thời gian, mức độ quan tâm như nhau.

Mạng xã hội phát triển với một tốc độ chóng mặt và đang trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của nhiều người. Tuy nhiên, chính vì sự phát triển quá nhanh này mà người sử dụng có thể bị quá tải thông tin. Ý tưởng và mục tiêu của chúng tôi là dùng các giải pháp về tự động hóa và trí tuệ nhân tạo để giúp người sử dụng có thể “quản lý” một cách hiệu quả nhất những mối quan hệ này

* Quỹ Kleiner Perkins đầu tư 5 triệu USD cho dự án. Những công việc gì sẽ được thực hiện bằng số tiền này ?

- Vâng, đúng là chúng tôi đứng trước những thách thức, khi trước đó những đàn anh xuất thân từ Đại học Stanford như Larry, Sergey (những người sáng lập Google) từng nhận đầu tư từ Kleiner Perkins và trở thành những tên tuổi lớn. Ngoài nguồn tiền đầu tư rất quan trọng, Kleiner Perkins còn mang đến những mối quan hệ, hợp tác với các công ty khác, những ý kiến tư vấn, bài học hết sức quý báu từ kinh nghiệm, bề dày truyền thống hoạt động của họ. Công ty CafeBots cố gắng tận dụng tốt nhất những lợi thế này trong việc phát triển. Chúng tôi có nhiều việc để làm

* Anh vừa nhận bằng tiến sĩ ĐH Stanford với dự định theo con đường giảng dạy, điều gì khiến anh chuyển hướng ?

- Không phải là chuyển hướng. Tôi vẫn theo đuổi con đường vừa nghiên cứu vừa giảng dạy phải gắn liền với ứng dụng thực tiễn. Việc hình thành và hoạt động của công ty là một công cụ sẽ giúp tôi xác định được những nhu cầu thiết thực của xã hội. Từ đó giúp tôi định hướng việc nghiên cứu tốt hơn và sẽ phục vụ công tác giảng dạy sau này. Ngoài ra, khối lượng lớn thông tin dữ liệu từ người sử dụng vô cùng giá trị cho việc đánh giá kết quả nghiên cứu. Sự kết hợp giữa nghiên cứu và phát triển sản phẩm là xu hướng chung của nhiều công ty lớn hiện nay trên thế giới như Google, Twitter...

P/S: Kleiner Perkins: quỹ đầu tư mạo hiểm của Mỹ từng rất thành công khi đầu tư vào Google, Amazon, Netscape, Sun Microsystems...
 
Thành lập quỹ đầu tư 500 triệu USD
Hỗ trợ doanh nghiệp Nga, Việt Nam phát triển khoa học công nghệ​


a_02.jpg
viet-2.jpg

Tại hội thảo “Khoa học thực tiễn công nghệ cao Mátxcơva – TPHCM” tại TPHCM vào sáng 24-11, Ngân hàng Nga Việt đã công bố thành lập quỹ đầu tư 500 triệu USD hỗ trợ doanh nghiệp Nga, Việt Nam phát triển khoa học công nghệ. Năm 2011, quỹ chính thức đi vào hoạt động, đưa ra những chính sách cụ thể mời gọi các doanh nghiệp hai nước tham gia

Đây là cơ hội lớn đối với các doanh nghiệp KHCN Việt Nam trong việc tiếp cận nguồn vốn…
 
Ngợp, nhưng sẽ bơi​

76040_1477940997115_1491451285_31019794_6825377_n-1.jpg

Son san với FPT team​

Tranh thủ thời gian rảnh rỗi trước giờ đi gặp khách hàng, tôi với a Bình đã cãi nhau kịch liệt về OneFPT. Ko có gì nghi ngờ việc phải đánh thức khát vọng của mỗi người FPT, để có thể trong 15 năm nữa, đưa FPT vào vị thế của Tata ở Ấn độ hay Samsung tại Hàn quốc, trong một đất nước Việt nam phát triển

Nhưng khát vọng không thôi chưa đủ, chúng ta cần phải có một kế hoạch cụ thể để thực hiện khát vọng đó. Mà không phải chúng ta, mà cụ thể là anh, là em. Và kế hoạch đó phải truyền đạt được một cách rõ ràng dễ hiểu. Khát vọng thì dễ sẻ chia, nhưng thống nhất hành động rất khó. Nhất là với những người đàn ông trên 50 tuổi, tự cho là mình đã có một chút thành đạt trong cuộc đời như chúng tôiJ Đâm ra thành cãi nhau, đao to búa lớn!

“Hết giờ”, a Bình tuyên bố. Bây giờ phải đi theo anh! Đi đâu, em có kế hoạch khác rồi. Hủy đi, anh ko thể đi một mình được!

Đành phải theo thôi làm thế nào

Hóa ra đi gặp Masayoshi Son, chủ tịch và tổng giám đốc của SoftBank. Ông này được coi là Bill Gates của Nhật!

Trái với bọn tôi đóng thùng comple cravat, người đàn ông nhỏ bé với cái trán hói này chỉ mặc một chiếc áo len chui cổ giản dị. Ông hỏi nhanh về FPT, vị thế ở Việt nam, thị trường internet, dân số. Rồi kết luận, chúng mày tuyệt vời, tay không mà dám cạnh tranh với các công ty nhà nước hùng mạnh. Cũng như chúng tao

Chúng tôi không thể nhận lời khen của ông. Ko phải vì khiêm tốn. Đơn giản là chúng tôi mới chỉ biết kiếm một ít tiền. Còn ông đã từng mất rất nhiều tiền. Mặc dù có tài sản được đánh giá khoảng 7 tỷ đô, Son san còn nổi tiếng hơn với danh hiệu là người đã từng mất nhiều tiền nhất trên toàn thế giới trong lịch sử. Ước tính ông đã mất 70 tỷ đô trong cuộc khủng hoảng dotcom năm 2000!

Chia tay chúng tôi, ông hứa, rồi tao sẽ trở thành công ty Internet hùng mạnh nhất thế giới. Very soon!

Ko kịp chia tay mọi người, tôi chạy vội đi gặp một khách hàng làm mobile app do Mori san giới thiệu. Môn này, FPT đang đầu tư, rất cần có đối tác. Đợi ở sảnh tòa nhà MidWest Sinzuku một lúc, thấy một phụ nữ áo liền váy hoa kiểu nông thôn chạy vào. Ôi chúng mày đấy à, Mori san dạo này thế nào khỏe không? Bọn mày ở Việt nam à? Ôi Việt nam tuyệt vời, thức ăn ngon lắm, có cô bạn học cùng tao người Việt nấu ăn cực ngon, lại chăm chỉ nữa. Chúng mày cũng làm internet, mạng xã hội, mobile app à? Đúng hướng rồi! Bọn tao làm gì ấy à ? Cũng như Facebook thôi, nhưng trên mobiles. Khoảng 21 triệu tài khoản, doanh số 1.3 tỷ đô. Bọn tao đang chuẩn bị mở rộng ra các nước khác, trước mắt là Mỹ và một nước Đông Nam Á nào đó

Bỏ mẹ, gặp cướp rồi. Facebook có gần 600 triệu tài khoản mà cũng chỉ có doanh số 1.2 tỷ thôi! Tôi hỏi nhỏ bác Mori, mẹ này thân thế thế nào? Trời, mày ko biết à. Người phụ nữ giàu nhất Nhật bản đấy. Tên bà là Tomoko Namba, người sáng lập và điều hành công ty DeNA. Nhưng vẫn vậy thôi, xởi lởi, nông dân, hàng ngày đi subways đi làm

Nhất định tao sẽ sang Việt nam, Namba san nói

Vậy đấy, trong vòng có hơn 2 tiếng đồng hồ, tôi đã được gặp 2 người nổi tiếng nhất trong giới công nghệ Nhật bản. Họ có thể nói ra những điều cực kỳ lớn lao một cách rất đơn giản. Như quần áo họ mặc vậy !

Tôi thực sự thấy ngợp! Nhưng sẽ bơi !


Nguyen Thanh Nam
 
Bà Lê Duy Loan đến thăm và làm việc tại công ty Bình Anh​

Ngày 9/11/2010, bà Lê Duy Loan, chuyên gia cao cấp của công ty Texas Instrument (TI) và cộng sự đã có chuyến thăm và làm việc với công ty điện tử Bình Anh (BA). Hai bên trao đổi thông tin và thảo luận một số hướng hợp tác

LobbyTI.jpg

Bà Lê Duy Loan đến BinhAnh làm việc với tư cách của chuyên gia cao cấp của TI, thúc đẩy việc bán các sản phẩm chip của TI cho BinhAnh nói riêng và thị trường VN nói chung. Ngoài ra bà còn đến với tư cách như một người chị có kinh nghiệm sâu sắc về lĩnh vực công nghệ bán dẫn, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và giúp đỡ các công ty Việt Nam trong ngành này phát triển. Những đề xuất, ý kiến của BinhAnh sẽ được bà Loan dành thời gian trực tiếp xem xét hỗ trợ

Phía công ty TI có đại diện của TI Vietnam, TI Asean, tiến sĩ Kun-Shan Linh – phó chủ tịch Texas Instruments Incorporated và bà Loan – cán bộ cao cấp của TI. Phía công ty BinhAnh có Mr Thanh Anh – giám đốc công ty và các trưởng bộ phận, các thành viên chủ chốt. Sau khi tham quan cơ sở vật chất, các bộ phận phần mềm, R&D, phòng sản xuất, kiểm định sản phẩm …, hai bên tiến hành thảo luận trong không khí cởi mở

Bà Lê Duy Loan và cộng sự giới thiệu các sản phẩm, công nghệ của TI và chính sách hỗ trợ các công ty khách hàng sử dụng sản phẩm của họ. Bà hi vọng BinhAnh sẽ sử dụng chip của TI trong sản phẩm của mình. Nếu như phía BinhAnh đang sử dụng/sẽ cần những dòng chip mà TI chưa có sản phẩm tương đương, bà Loan và cộng sự cũng sẽ ghi nhận nhu cầu này để xem xét hỗ trợ

Công ty BinhAnh đánh giá cao các sản phẩm của TI, nhất là những sự hỗ trợ cần thiết về công nghệ của TI cũng như sự "ưu ái" của bà Loan cho công ty. Công ty BinhAnh ấn tượng với những dòng chip Multicore (Arm + DSP). BinhAnh nhận định là những chip đủ mạnh và giá thành hợp lý để BinhAnh có thể xây dựng sản phẩm hộp đen trang bị những tính năng cao cấp như xem video, voice conference với lái xe từ xa và nhiều tính năng đòi hỏi tính toán phức tạp khác. Ngoài ra các dòng chip tích hợp sẵn nhiều thiết bị ngoại vi, cảm biến cũng là nền tảng tốt để BinhAnh có thể đưa ra thị trường các sản phẩm nhỏ gọn hơn, chi phí thấp hơn

Công ty Bình Anh cũng đưa ra ý kiến là TI nên xây dựng cộng đồng phần mềm mã nguồn mở chuyên viết các application, firmware, driver … cho chip của TI. Nếu cộng đồng này cung cấp nhiều “tài nguyên” sẵn có để các công ty có thể lấy về sử dụng ngay, hay cải tiến một phần rồi tích hợp vào sản phẩm của họ thì các công ty sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và chi phí để đưa sản phẩm ra thị trường. Mr Thái Hoa – trưởng phòng R&D của BinhAnh nhận định “Yếu tố then chốt để một công ty xem xét nên dùng nền tảng chip của hãng nào là xem nền tảng chip đó có cộng đồng mã nguồn mở đông đảo không? Có nhiều application/middleware/driver sẵn có trên internet không?”

Bà Loan và cộng sự tán thành ý kiến này

Mr Thành Trung – trưởng phòng QA của BinhAnh đề nghị bà Loan cho ý kiến nhận định về xu hướng công nghệ ICT cho y tế trên toàn cầu nói chung? Và các chính sách phát triển các dòng chip cho thiết bị y tế của TI? Bà Loan đánh giá hiện tại đây là một hướng đi rất nóng, với sự tham gia mạnh mẽ của các đại gia phần mềm, internet như Microsoft Healthvault, Google Health. TI cũng không nằm ngoài xu thế đó với hàng loạt các sản phẩm như: chip Multicore DSP dành cho y tế, chip Ultra Low power DSP dành cho các thiết bị y tế cầm tay

TI.jpg

Bên cạnh các thảo luận về kỹ thuật, Mr Thanh Anh – giám đốc công ty BinhAnh cũng “nhờ chị Loan” và TI tư vấn giúp BinhAnh về quy trình quản trị để BinhAnh có thể tiếp xúc, hấp thụ nhưng phương pháp quản trị một công ty công nghệ hàng đầu như TI. Xây dựng một sản phẩm công nghệ đã khó, nhưng xây dựng một quy trình quản trị giúp tổ chức có khả năng liên tục sáng tạo ra các sản phẩm công nghệ như TI càng khó hơn. Binh Anh mong muốn mong muốn được tiếp xúc, học tập kinh nghiệm quản trị của TI nói chung và của bà Loan nói riêng

Mr Trần Đại Thắng, phụ trách kinh doanh của Binh Anh thảo luận với bà Loan xúc tiến xây dựng cầu nối kỹ thuật công nghệ giữa những công ty công nghệ ở trong nước và cộng đồng các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ Việt kiều ở nước ngoài. Mr Thắng nhận định cầu nối của người Việt, sẽ giúp các công ty trong nước tiếp cận nhanh các công nghệ mới, còn cộng đồng công nghệ Việt kiều sẽ kết nối được với nguồn lực (còn chưa khai thác được) ở “đất mẹ”. Đây cũng là điều bà Loan rất tâm đắc, như lời cha bà dặn dò khi sang Mỹ năm 12 tuổi "Đi đi con và phải quyết chí học - Để mai này còn bao bọc quê hương". Định hướng là như vậy, nhưng hợp tác thực sự giữa cộng đồng kỹ thuật công nghệ ở trong và ngoài nước cũng không đơn giản, đòi hỏi phải trao đổi thông tin nhiều hơn nữa. Trong ngắn hạn một quỹ đầu tư mạo hiểm về công nghệ của Việt kiều là một hướng hợp tác thú vị. Đưa ra cách thức này, thiết nghĩ không phải VN thiếu tiền đầu tư cho công nghệ, mà thiếu cách quản trị đầu tư cho công nghệ đúng đắn, để tiền được “rót” về đúng nơi cần đến. Mr Thắng tin rằng tiền đầu tư công nghệ được quản trị bởi chuyên gia công nghệ hàng đầu sẽ giúp tăng sức mạnh của đồng tiền lên nhiều lần

Bà Loan đánh giá cao BinhAnh, một công ty trẻ mới thành lập từ năm 2007 nhưng năm 2010 đã phát triển nhanh chóng về quy mô nhân sự, cơ sở vật chất và đặc biệt là có một sản phẩm công nghệ có chất lượng cao, nhiều tính năng, và gần như tự chủ hoàn toàn công nghệ sản xuất từ tích hợp phần cứng đến sản xuất phần mềm. BinhAnh cũng là một công ty có khát vọng về công nghệ, tập hợp được những nhân tố phù hợp để xây dựng một tổ chức công nghệ vững mạnh. Bà Loan hi vọng BinhAnh sẽ nhanh chóng phát triển trong nước và quốc tế và sẵn lòng hỗ trợ công ty trong khả năng cho phép

Công ty BinhAnh đánh giá cao những hỗ trợ của TI nói chung và bà Lê Duy Loan nói riêng. Công ty hi vọng rằng những hỗ trợ này sẽ sớm phát huy hiệu quả, phù hợp với nhu cầu thực sự của những công ty công nghệ còn non trẻ như Binh Anh trong bối cảnh nền kinh tế còn yếu kém của Việt Nam. Để sau đó có thể đưa sản phẩm vươn ra thế giới bằng con đường học hỏi công nghệ - tự chủ công nghệ - sáng tạo kỹ thuật công nghệ
 
Obama có thể học gì từ Ấn Độ ?​

Đến thăm Ấn Độ, Tổng thống Mỹ Barack Obama muốn hướng tới một trong số các thị trường tăng trưởng nhanh nhất thế giới nhằm tạo việc làm tại Mỹ. Nhiều chủ doanh nghiệp Mỹ hiện coi Ấn Độ là “Trung Quốc mới” – một trung tâm dịch vụ và sản xuất ngày càng quan trọng và cũng là thị trường tiêu thụ hàng hóa của Mỹ

Khi cuộc suy thoái vẫn còn tiếp tục hoành hành tại Mỹ và nhiều nước châu Âu, nền kinh tế Ấn Độ lại tăng trưởng với con số ấn tượng 9% trong năm nay. Dù giữa hai nền kinh tế có nhiều khác biệt, nhưng Mỹ có thể học được gì từ Ấn Độ về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế? Các chính sách hay thể chế của Ấn Độ có thể đem lại bài học gì hấp dẫn cho Mỹ ?

Tuần Việt Nam xin giới thiệu ý kiến của các chuyên gia về việc này, đăng trên tờ New York Times của Mỹ nhân chuyến thăm Ấn Độ của ông Obama vừa qua

Tìm những giải pháp nhỏ và mềm dẻo

Theo Bộ trưởng phát triển Nhân lực của Ấn Độ, cũng là Giáo sư về luật Sở hữu trí tuệ tại đại học quốc gia Khoa học Luật ở Calcutta, ông Shamnad Basheer, phương châm "nằm lòng" của hãng sản xuất xe hơi Tata Nano của Ấn Độ là các giải pháp nhỏ và khéo léo. Có thể đây chính là mô hình cải tiến mà đa số các công ty Ấn Độ đều đi theo, và Mỹ có thể học tập được

Tại Mỹ, Godzilla vẫn đang là đỉnh cao và những cái hoành tráng được coi là đẹp. Một số người gọi giải pháp của Ấn Độ là mô hình cải tiến "ngược". Một số khác gọi đây là "jugaad" (loại xe công nông tự chế của Ấn Độ thường được dùng trong các ngôi làng nhỏ), khái niệm gắn với các giải pháp rẻ tiền và khéo léo về giảm thiểu nguyên liệu, giống như chiếc máy xay bột mini vận hành kiểu bán tự động

Nhưng một bằng chứng thú vị là một trong các nhà khoa học cấp cao của Ấn Độ, ông C.N.R. Rao, mới đây tiết lộ làm thế nào ông tiến hành các nghiên cứu trong bối cảnh thiếu trang thiết bị thí nghiệm tiên tiến. Bí quyết của ông là tập trung vào những ý tưởng và vấn đề mới và hấp dẫn, mà cả những phép đo đơn giản cũng có kiểm chứng tốt. Người khác có thể kiểm nghiệm lại tính hợp lý của các phát minh của ông bằng các thiết bị tinh tế và đã thừa nhận rằng các khám phá của ông rất có ý nghĩa

Tại sao các công ty phần mềm của Ấn Độ phát triển thịnh vượng ?

Động cơ chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ là các công ty phần mềm như TCS, Infosys và Wipro. Làm sao một nước nghèo như Ấn Độ có thể cạnh tranh với quốc tế trong lĩnh vực công nghệ cao như vậy ?

Theo Ashish Arora, một chuyên gia kinh tế và là giáo sư tại Đại học Kinh tế Fuqua thuộc Đại học Duke, không kể đến yếu tố may mắn, Ấn Độ đã thành công trong lĩnh vực phần mềm là nhờ giới chủ biết nắm bắt cơ hội, cũng như chính sách cởi mở và kết nối với nền kinh tế thế giới

Đúng là Ấn Độ có lực lượng kỹ sư đông đảo, luôn sẵn lòng làm việc với mức lương thấp. Nhưng làm sao một quốc gia với thu nhập bình quân đầu người dưới 500 USD lại có thể tạo ra nhiều kỹ sư đến vậy? Và tại sao các nước khác, có nhiều tài năng khoa học hơn như Philippines và Nga lại không thể tái tạo tài năng này như Ấn Độ đã làm được ?

Sau 15 năm tăng trưởng ì ạch, Ấn Độ bắt đầu tự do hóa nền kinh tế vào giữa những năm 1980, vì vậy, họ đã được chuẩn bị tốt khi đến thời bùng nổ I.T đầu những năm 1990. Các công ty đa quốc gia của Mỹ đã tích cực thâm nhập thị trường này. Những công ty như Citigroup, Motorola và Texas Instruments đã thấy rằng Ấn Độ có tài năng phần mềm và giới chủ trong lĩnh vực này rất biết nắm bắt cơ hội

Đáng chú ý là một quốc gia mà khối doanh nghiệp tư nhân khổng lồ hầu như chỉ tìm cách sinh lời lại có thể sản sinh ra nhiều ông chủ đến vậy. Đáng kể hơn là ngành công nghiệp phần mềm lại có thể trở thành một chất xúc tác cho tăng trưởng kinh tế

Trên thực tế, các ông chủ trong lĩnh vực phần mềm ở Ấn Độ đến từ mọi miền trên đất nước và từ cả cộng đồng người Ấn ở Mỹ. Tuy nhiên, ngành công nghiệp đang lớn mạnh này có thể mất đà nhanh chóng nếu lương của kỹ sư phần mềm hiện nay tăng cao, hoặc nếu các công ty không hài lòng với sự quản lý của chính phủ. Nhưng cả hai điều này đều không xảy ra. Ngành công nghiệp phần mềm Ấn Độ vẫn đi trên chiếc thảm đỏ của nhà nước cùng với việc thúc đẩy sản xuất chíp bán dẫn và phần cứng máy vi tính

Phần mềm đã được hưởng lợi từ nhiều chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu (dù không chính sách nào trực tiếp tạo điều kiện cho phần mềm). Tuy nhiên, những chính sách nhằm duy trì tăng trưởng trong lĩnh vực phần mềm lại không đáng kể. Không giống các lĩnh vực khác trong nền kinh tế Ấn Độ, giáo dục không phải là nền tảng của chính phủ liên bang. Nhưng thật may mắn, một số bang như Karnataka, nơi có thủ phủ là Bangalore nổi tiếng với Thung lĩnh Silicon của Ấn Độ, đã cho phép mở các trường tư thục đào tạo kỹ sư. Chính các trường tư này đã "xuất xưởng" rất nhiều kỹ sư thông minh và đầy nhiệt huyết nghề. Bên cạnh đó, ngày càng nhiều bạn trẻ mong muốn kiếm được mức lương cao nhờ tấm bằng kỹ sư, vì vậy "những ông chủ hàn lâm" cũng bắt đầu mở thêm trường mới

Một điểm đặc biệt nữa là Ấn Độ đã kết nối được với nền kinh tế toàn cầu (đặc biệt là Mỹ) theo nhiều cách khác nhau, thông qua một ngôn ngữ chung là tiếng Anh, thông qua tự do hóa kinh tế trong những năm 1990, tạo cơ hội cho ngoại thương, và thông qua cộng đồng người Ấn, những người góp phần kết nối ngành công nghiệp phần mềm mới với khách hàng ở Mỹ và Tây Âu

Có một bài học từ kinh nghiệm này. Mỹ vốn hưởng lợi rất nhiều từ sự việc mở cửa với thế giới, nhưng hiện đang đứng trước nguy cơ trở nên ít cởi mở hơn, ít kết nối hơn và không còn hiếu khách với thế giới bên ngoài. Cuộc tranh luận gay gắt về nhập cư, "cuộc chiến chống khủng bố", và chủ nghĩa bảo hộ thương mại đang khiến Mỹ không còn rộng vòng tay với những người nước ngoài tài năng và tham vọng, những người sẽ đem đến làn sóng cách tân tiếp theo trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, y tế, năng lượng và môi trường

Thứ hai, hãy để các lực lượng thị trường quyết định ai sống sót và ai thịnh vượng. Các công ty phần mềm của Ấn Độ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là vì các công ty này được vận hành bởi những ông chủ minh bạch, luôn muốn chia sẻ tài sản sạch của mình với nhân viên và các cổ đông

Ở Ấn Độ, mọi người đều nhất trí tạo tăng trưởng dựa trên thị trường và điều này không hề thay đổi dù cho đảng nào lên cầm quyền. Điểm này thực ra không phải là mới đối với Mỹ, nước từng là tấm gương cho phần còn lại của thế giới về việc các tập đoàn nhà nước nên được quản lý và điều tiết như thế nào. Nhưng Mỹ cũng cần cải thiện nhiều hơn trong việc quản lý các lĩnh vực như tài chính và chăm sóc sức khỏe

Các chính sách nhằm thúc đẩy cải tiến - như thành lập các tập đoàn, giảm thuế đánh vào vốn kinh doanh, hỗ trợ cho nghiên cứu và phát triển hay ưu đãi cho các ngành công nghiệp trọng điểm - thì không có gì phải bàn. Nhưng vấn đề thực sự lại là nền tảng: nguồn cung tài năng, sự kết nối với thế giới bên ngoài, và sự tự do của giới chủ trong việc thành hay bại.

Tăng tiết kiệm, tăng đầu tư

Nhiều chuyên gia kinh tế tin rằng đến năm 2015, tăng trưởng GDP của Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc. Rất nhiều xu hướng tại Ấn Độ dẫn tới kết luận này, trong đó có lực lượng lao động có học vấn ngày càng cao và trẻ, trong khi số người về hưu phải chăm lo là tương đối ít, các cuộc cải cách cơ cấu được Chính phủ Ấn Độ tiếp tục tiến hành, và chi tiêu cho cơ sở hạ tầng ngày càng gia tăng

Nhưng có một yếu tố rõ rệt mà Mỹ có thể học tập là từ chính cách Ấn Độ thoát khỏi cuộc suy thoái của mình: người Ấn Độ tiết kiệm khoảng 33-36% tổng GDP, trong khi con số này ở Mỹ là 11-13%. (Trung Quốc là 51%). Tại sao vậy ?

Dù chi tiêu của người tiêu dùng có thể giúp nền kinh tế quốc gia thoát khỏi suy thoái trước mắt, nhưng về lâu dài, tăng tiết kiệm sẽ hữu ích hơn. Nếu người dân gửi càng nhiều tiền vào các ngân hàng Mỹ đồng nghĩa với việc sẽ có càng nhiều tiền sẵn sàng để đầu tư - hoạt động cần thiết để đạt tăng trưởng cao hơn

Người Ấn Độ có những lý do chính đáng để tiết kiệm nhiều hơn người Mỹ: Ấn Độ không có các mạng lưới an sinh xã hội, không bảo hiểm thất nghiệp, không bảo hiểm y tế thực sự. Tại các nước phương Tây, việc tồn tại nhiều mạng lưới an sinh khiến người ta mất thói quen tiết kiệm

Tuy nhiên, người Mỹ cũng có không ít lý do để bắt đầu tiết kiệm ngay từ bây giờ. Họ đã mất một lượng tài sản khổng lồ trên thị trường chứng khoán trong vài năm qua, và nhiều người, đặc biệt là những người sinh ra sau chiến tranh giờ sắp về hưu, đang trở thành gánh nặng lớn. Tiền chi cho an sinh xã hội đã vượt quá nguồn thu, đe dọa đến tương lai của chính hệ thống này. Thâm hụt ngân sách khổng lồ của Chính phủ Mỹ sẽ dẫn tới tăng thuế trong tương lai. Vì những lý do đó, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao ở Ấn Độ có thể xứng đáng là tấm gương tốt cho Mỹ

Giáo dục công nghệ cao

Bà Chitra Divakaruni, tác giả tiểu thuyết "Một điều kỳ diệu" (One amazing thing), hiện đang giảng dạy văn học tại Đại học Houston, cho rằng để giành lại một mũi nhọn cách tân, Mỹ nên nhìn vào hệ thống Viện Công nghệ của Ấn Độ

Dưới tác động của một cuộc suy thoái lớn, và bị mệt mỏi bởi những cuộc cãi vã giữa hai đảng, Mỹ đã tụt xuống vị trí thứ 27 trong các quốc gia phát triển về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp ngành kỹ sư và khoa học. Mỹ đã tự đánh mất mình trong chính ngành công nghiệp được cho là đỉnh cao của họ: giáo dục đại học. Để cạnh tranh toàn cầu, Mỹ cần tạo ra các công nhân bản địa được đào tạo tốt hơn về công nghệ và cách tân. Đây chính là lĩnh vực mà hệ thống Viện Công nghệ của Ấn Độ có thể đem tới cho Mỹ một số ý tưởng

Các trung tâm Viện Công nghệ của Ấn Độ (được chính phủ thành lập từ những năm 1950 và tài trợ rất nhiều) luôn "xuất trường" những cử nhân nằm trong số những ông chủ và nhà cách tân thành công nhất thế giới. Các "gia giảm" tạo nên kinh nghiệm của họ bao gồm: một bài kiểm tra đầu vào gắt gao nhằm tìm nhân tài thực sự (không phụ thuộc vào việc bạn tốt nghiệp trường trung học nào, quá trình công tác của bạn thế nào hay bạn xuất thân từ đâu); những năm học khắc nghiệt từ đầu đến cuối, buộc các sinh viên phải nghiên cứu cực kỳ nặng nhọc; sự huy động tối đa các nguồn lực và hợp tác (các sinh viên thường dùng chung sách giáo khoa hoặc các phương tiện nghiên cứu và học hỏi lẫn nhau); sự bắt buộc phải sống trong ký túc xá (mọi người cùng ký túc là gia đình của bạn). Kết quả là: một mạng lưới sinh viên ưu tú đẳng cấp quốc tế, nổi tiếng vì những thành quả nghiên cứu, tinh thần giúp đỡ lẫn nhau, và sự đền đáp công ơn. Các sinh viên tốt nghiệp ra trường đã thành lập các công ty hàng đầu, tạo thêm nhiều việc làm, hiến tặng hàng triệu USD cho trường học của mình cũng như tài trợ cho nhiều công ty phi lợi nhuận của Ấn Độ và cả của Mỹ

Hệ thống này tất nhiên vẫn chưa hoàn thiện. Sức ép lớn của nó đôi khi khiến một số sinh viên phải "đứt gánh giữa đường". Mục tiêu tập trung hẹp trong lĩnh vực công nghệ cũng tạo ra khoảng cách trong giáo dục đại học. Sinh viên nữ không được coi trọng đúng mức trong khu ký túc. Tuy nhiên, vẫn có nhiều điều mà Mỹ có thể học tập từ các viện này nếu muốn giành lại mũi nhọn cách tân

Cuộc chiến chống bảo hộ


Theo ông Arvind Panagariya, giáo sư kinh tế học và kinh tế chính trị Ấn Độ tại Đại học Columbia (Mỹ), có hai bài học mà Mỹ có thể học từ Ấn Độ

Đầu tiên chính là bài học mà Mỹ đã từng dạy Ấn Độ và nhiều nước khác nhưng giờ đây họ đang dần quên nó: mở cửa cho thương mại toàn cầu về hàng hóa và dịch vụ có vai trò đặc biệt quan trọng giúp giành ưu thế hoàn toàn về cắt giảm chi phí và cải tiến sản phẩm - điều đang diễn ra trên toàn thế giới

Trong gần bốn thập kỷ từ năm 1950-1990, Ấn Độ đã trung thành với chính sách tự cấp tự túc và đã không tận dụng được lợi thế trong cuộc cạnh tranh và cách tân toàn cầu để tăng sản lượng. Chính việc mở cửa dần dần với các thị trường thế giới đã cho phép Ấn Độ lần đầu tiên tăng trưởng 6%/năm và trong vài năm gần đây con số này lên tới 8%/năm

Thật không may là chính quyền Mỹ hiện nay đang để mặc cho các hình thức bảo hộ thương mại. Mới đây họ đã áp đặt mức thu phí 2.000 USD hoặc hơn đối với thị thực H1-B và L-1, loại dành cho lao động nước ngoài lành nghề. Một ví dụ khác là sự phân biệt đối xử về thuế dựa trên số việc làm mà các công ty tạo ra ở trong nước hay ở nước ngoài

Nhưng trong nền kinh tế toàn cầu cạnh tranh cao hiện nay, nếu một công ty chuyển 5.000 việc làm ra nước ngoài, họ có thể làm tương tự để giữ khoảng 50.000 chỗ làm khác trong nước mà lẽ ra phải mất. Giống như trường hợp Boeing mua thép giá rẻ ở nước ngoài để có thể cạnh tranh được với Airbus. Nếu buộc Boeing chỉ được sử dụng nguyên liệu thép trong nước thì chắc chắn kết quả sẽ là số người mất việc làm tại Boeing sẽ nhiều hơn số việc làm tạo ra thêm trong ngành công nghiệp thép của Mỹ

Bài học thứ hai mà Mỹ có thể học từ Ấn Độ là lĩnh vực tài chính và các lĩnh vực "thực" trong nền kinh tế không hề giống nhau và nên được quản lý theo những cách khác nhau. Các thị trường tự do và cạnh tranh, nhìn chung rốt cục giúp thúc đẩy tính hiệu quả của lĩnh vực "thực", vốn tạo ra hàng hóa và dịch vụ. Sự can thiệp của chính phủ trong lĩnh vực "thực" - như họ đã làm với General Motors - là phản tác dụng

Mặt khác, quản lý thận trọng là cần thiết và rất quan trọng trong lĩnh vực tài chính, vì sự bóp méo xuất phát từ thông tin thiếu chân thực và không cân xứng vốn rất phổ biến trong lĩnh vực này

Dù Ấn Độ vẫn quản lý hơi thái quá và sẽ cần tiếp tục nới lỏng, nhưng họ đã tránh được các thiệt hại lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính mới đây, chủ yếu là vì các ngân hàng và thể chế tài chính của họ đã trở thành mục tiêu của sự điều chỉnh nghiêm ngặt. Lập luận cho các dòng vốn hoàn toàn tự do của Mỹ và Quỹ Tiền tệ Quốc tế có những hạn chế rất lớn
 
Robin Li - Người hùng và tội đồ​

6757_Robin-Li.jpg

Robin Li, đồng sáng lập và Tổng Giám đốc Baidu​

Một mặt, Robin Li bị cáo buộc vi phạm đạo đức kinh doanh. Mặt khác, ông là một trong những doanh nhân thành công nhất Trung Quốc và có cả câu lạc bộ người hâm mộ

Chuyện các lãnh đạo doanh nghiệp được nhiều người ngưỡng mộ thì không lạ, nhưng có cả một câu lạc bộ người hâm mộ như Robin Li, Tổng Giám đốc Baidu, công ty sở hữu công cụ tìm kiếm bằng tiếng Hoa lớn nhất Trung Quốc, thì khá hiếm. Điều này cho thấy Li có sức hút như thế nào đối với cư dân mạng. Đặc biệt, từ sau khi Google bị hất cẳng khỏi Trung Quốc, thị trường công cụ tìm kiếm lớn nhất thế giới (tính theo số người sử dụng), tiếng tăm của Li càng nổi như cồn

Điều đáng nói, Li được xem là người đứng đằng sau những lục đục giữa Google và Chính phủ Trung Quốc, góp phần dẫn đến sự ra đi của công ty này. Giá cổ phiếu của Baidu đã tăng hơn 2 lần kể từ tháng 1.2010, khi Google cho biết các tin tặc Trung Quốc đang nhắm vào các tài khoản thư điện tử Gmail. Google cũng tuyên bố chuyển các yêu cầu tìm kiếm từ Trung Quốc sang trang web Google ở Hồng Kông để tránh hệ thống kiểm duyệt thông tin gắt gao của Chính phủ Trung Quốc. Tuy nhiên, nỗ lực của Google đã thất bại và Tổng Giám đốc Google Eric Schmidt đã cay đắng thừa nhận: “Robin rất tinh ranh. Anh ta luôn lái cuộc chiến trở về Trung Quốc, nơi anh ta có ưu thế tuyệt đối”

Hiện tại, Baidu đang độc chiếm thị trường tìm kiếm Trung Quốc với 73% thị phần và là công ty dịch vụ internet có mức vốn hóa lớn thứ 5 thế giới với 38,3 tỉ USD, sau Google, Amazon, Tencent (công ty cung cấp dịch vụ nhắn tin qua điện thoại và game trực tuyến của Trung Quốc) và eBay.

Duyên nợ Google

Mối duyên giữa Baidu và Google bắt đầu vào năm 2004, khi công ty này đầu tư 5 triệu USD vào Baidu để thăm dò thị trường Trung Quốc. Nhưng ngay từ đầu cả 2 đã tỏ ra không tin tưởng nhau. Cuối năm đó, 2 nhà sáng lập Google là Sergey Brin và Larry Page ghé thăm văn phòng Baidu và đã để lại nhiều giai thoại thú vị. Brin và Page đã làm Li bẽ mặt khi từ chối ăn món sandwich Subway mà Công ty mời. Lý do là trước đó, họ đã bị bệnh do ăn thức ăn chưa được nấu kỹ tại Ấn Độ nên giờ phải ăn uống cẩn thận hơn. Nhận xét về logo của Baidu, Brin hồn nhiên hỏi Li có phải nó được cách điệu từ hình ảnh dấu chân… chó. Li tức tối đính chính đó là dấu chân gấu

Về chuyện bại trận của Google, bỏ qua vai trò của Chính phủ Trung Quốc, Baidu cho rằng Google thua vì không hiểu thị trường bằng họ. Điều này được chứng minh bằng 11 đường dẫn trên trang web của Baidu đến các dịch vụ khác nhau như Baidu Knows (trang web hỏi đáp tương tự Yahoo! Answers), Baidu Post-Bar (trang web cung cấp các bảng xếp hạng nổi tiếng) và Baidu Encyclopedia (phiên bản Trung Quốc của Wikipedia)

Tuy nhiên, nếu xem tính khách quan là tiêu chuẩn bắt buộc của một hệ thống tìm kiếm thì đạo đức kinh doanh của Baidu bị đặt nhiều nghi vấn. Nhiều năm qua, trên các diễn đàn trực tuyến, một số công ty quảng cáo đã buộc tội Baidu âm thầm trừng phạt những hãng nào dám cắt giảm chi phí quảng cáo trên website này. Nhưng Li đã bác bỏ lời buộc tội trên

Thực hư chưa biết ra sao thì năm 2008, Baidu lại bị cư dân mạng tố cáo là nhận tiền của Tam Lộc (hãng sữa sản xuất ra loại sữa bột nhiễm melamine gây ra cái chết của 6 trẻ em Trung Quốc và 54.000 người phải nhập viện), để chặn các thông tin về vụ sữa nhiễm độc khi người dùng internet gõ lệnh tìm kiếm. Li một lần nữa thanh minh rằng điều này là do chút sơ sót trong quá trình lọc thông tin

Mối nghi ngờ về uy tín của Baidu chưa dừng ở đó. Li luôn khẳng định Baidu không làm giàu nhờ tiếp tay cho nạn vi phạm bản quyền. Thế nhưng, nhiều hãng ghi âm cho biết dịch vụ tải nhạc MP3 của Baidu cho phép người dùng internet tải miễn phí hầu như tất cả các bản nhạc mà họ phát hành. Năm 2005, một số hãng đĩa đã liên kết lại kiện Baidu, nhưng các quan tòa Trung Quốc đã đứng về phía Baidu và phán quyết rằng hãng này chỉ đơn thuần cung cấp cho người dùng những thông tin họ tìm kiếm bằng cách kết nối đến các trang web âm nhạc

Baidu MP3 cũng là dịch vụ thành công nhất của Baidu khi chiếm đến 40% lượng truy cập vào website này tính đến năm 2005 (nay đã giảm xuống còn 5%). Đáp lại những cáo buộc vi phạm bản quyền khi cho người dùng tải miễn phí các bản nhạc MP3, Li nói rằng đó không phải là trách nhiệm của ông. “Nếu người dùng muốn tìm kiếm một thông tin hợp pháp, chúng tôi không thể từ chối họ chỉ để làm hài lòng các hãng đĩa”, ông nói

Ngay cả với đồng minh mà Baidu hết sức o bế là Chính phủ Trung Quốc, Baidu cũng có lúc bị thất sủng. Tháng 11.2008, Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc đã phát sóng một số phóng sự điều tra xung quanh việc Baidu bị cáo buộc kiếm hàng triệu USD từ việc quảng cáo các loại dược phẩm không được cấp phép

Mộng bành trướng

Bất chấp những điều tiếng trên, thế giới cũng phải công nhận tài năng của Li. Sau khi đối thủ Google bị loại khỏi Trung Quốc, Li đã có thể toàn tâm cho các dự án mới gồm mở rộng sang lĩnh vực trò chơi trực tuyến, thương mại điện tử, thanh toán trực tuyến, lập một website chia sẻ video giống như Hulu.com có tên là Qiyi và đưa thương hiệu Baidu ra thế giới. “Tôi hy vọng 10 năm nữa 50% gia đình trên thế giới sẽ thường xuyên nhắc đến cái tên Baidu”, Li nói

Tuy nhiên, trước khi bành trướng ra thế giới, Baidu sẽ phải lấy được lòng tin của người tiêu dùng, điều mà Google đã làm rất tốt. Và một thứ vũ khí có thể giúp Baidu lấy lại hình ảnh trước công chúng có lẽ là ông chủ của nó, Robin Li

Khi còn làm việc tại Thung lũng Silicon vào những năm 1990, Li đã rất kỳ vọng vào công cụ tìm kiếm qua internet. Năm 1996, ông được trao bằng sáng chế cho một công trình được gọi là hệ thống phân tích các kết nối internet, xếp hạng số lượng đường dẫn đến một website (năm 1996). Vì muốn xây dựng một công cụ tìm kiếm cho thị trường quê nhà, Li và người đồng hương Eric Xu quyết định quay trở về Bắc Kinh bắt tay vào công việc kinh doanh và sau đó khai sinh ra Baidu

Đến nay, trong lúc các bạn bè đồng môn của Li ở Thung lũng Silicon vẫn cặm cụi kiếm khoảng 45.000 USD/năm thì Li đã là người giàu thứ 2 Trung Quốc với giá trị tài sản lên tới 7,2 tỉ USD. Những câu chuyện về sự tận tâm với Baidu của Li như công việc đã khiến ông nhiều đêm thức trắng như thế nào, hay ông đã nằm ngủ ngay trên vô-lăng vì không còn đủ sức bước vào nhà, cũng lan truyền rất rộng trong công chúng. Baidu càng hấp dẫn các cổ đông khi Li chưa từng bán ra một cổ phiếu nào của Công ty

Cổ đông của Baidu ở Mỹ thậm chí còn ngưỡng mộ Li hơn cả các nhà đầu tư ở quê nhà. “Li có mọi tố chất của một nhà kinh doanh giỏi”, Hugo Shong, sáng lập viên của Quỹ Đầu tư IDG Capital Partners, nói. Quỹ này đã đầu tư 1,5 triệu USD vào Baidu năm 2000 và 5 năm sau đó, khoản đầu tư đạt trị giá đến 170 triệu USD, khi Baidu phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Chỉ trong ngày đầu tiên niêm yết trên Sàn Chứng khoán Nasdaq ở Mỹ (5.8.2005), cổ phiếu của Baidu đã tăng từ 27 USD/cổ phiếu lên 122 USD/cổ phiếu, đưa giá trị thị trường của Baidu lên mức 4 tỉ USD và biến Li trở thành tỉ phú đô-la đầu tiên trong lĩnh vực trực tuyến của Trung Quốc

Sau sự rút lui của Google, Baidu giờ chỉ còn 2 đối thủ là Alibaba và Tencent trong cuộc cạnh tranh giành ngôi vị công ty internet lớn nhất Trung Quốc. Alibaba, website thương mại điện tử B2B lớn nhất thế giới, đã chặn hệ thống tìm kiếm của Baidu khỏi các trang catalogue sản phẩm được rao bán trên trang này và đang tự thiết kế một hệ thống tìm kiếm riêng chuyên phục vụ cho việc mua hàng qua mạng. Tencent cũng xây dựng một công cụ tìm kiếm riêng có tên Soso.com. Cuộc chiến này nóng trên cả các mặt báo khi người phát ngôn của Tencent đặt cho Baidu biệt danh “những tên lưu manh”, trong lúc Baidu gọi Tencent là “thứ con hoang lắm điều”
 
Top