What's new
Vietnam - Điện Biên Phủ Kinh Tế

This is a sample guest message. Register a free account today to become a member! Once signed in, you'll be able to participate on this site by adding your own topics and posts, as well as connect with other members through your own private inbox!

QUANG TRUNG NETWORK

LOBBY.VN

Administrator
Hoàng đế Quang Trung điều hành phát triển kinh tế Đại Việt

Trong thời gian trị vì (từ cuối năm 1788 đến tháng 9.1792), Hoàng đế Quang Trung đã ban hành và thực thi nhiều chính sách quản lý kinh tế tiến bộ, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng sau một thời gian dài nội chiến và đem đến cuộc sống ấm no, ổn định cho nhân dân

Cải cách, mở cửa, khoan thư sức dân

Ngay sau khi đại phá quân Thanh, Hoàng đế Quang Trung đã bắt tay vào thực thi các chính sách về kinh tế, văn hóa, giáo dục, ngoại giao... với tư tưởng đổi mới, tinh thần kiên quyết và mạnh mẽ. Trong đó, chính sách quản lý kinh tế được ông ưu tiên thực thi như một biện pháp cấp bách hàng đầu

Để nhanh chóng phục hồi sản xuất nông nghiệp, năm 1789, Hoàng đế Quang Trung ban bố “Chiếu khuyến nông”, trong đó quy định dân lưu tán phải trở về quê quán để sinh sống; làng xã phải cung cấp ruộng đất công cho họ cày cấy; đảm bảo chia ruộng đất một cách công bằng


viewimage.aspx

Tượng đài Hoàng đế Quang Trung trong khuôn viên Bảo tàng Quang Trung

Hoàng đế Quang Trung khuyến khích phục hồi và mở rộng các làng thủ công, ban hành sắc lệnh “Khoan thư sức dân”, bãi bỏ thuế điệu (thuế thủ công) cho nhân dân từ sông Gianh trở ra. Ông thể hiện rõ quan điểm nền kinh tế đất nước phải xây dựng trên nền tảng độc lập, tự cường để có thể sản xuất ra nhiều hàng hóa nhằm không ngừng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và phát triển kinh tế quốc gia

Hoàng đế Quang Trung cương quyết xóa bỏ chính sách “ức thương - bế quan tỏa cảng” đã tồn tại ở Đại Việt trước đó hàng 3 - 4 thế kỷ. Tư tưởng thông thương tiến bộ của Quang Trung đã thể hiện nhãn quan kinh tế rộng mở, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại, tạo thế ba chân của ba ngành kinh tế nông - công - thương rất vững chắc. Sự phát triển đó đã đưa nền kinh tế nước ta ngang bằng với Nhật Bản đương thời

Hoàng đế Quang Trung cũng chủ động viết thư cho Tổng đốc vùng Lưỡng Quảng (nhà Thanh) đề nghị “khai quan, thông thị sử bách hóa vô ủng, dĩ lợi dân dụng”. Nghĩa là “mở cửa ải, thông chợ búa khiến hàng hóa không ngưng đọng để làm lợi dân dùng”. Trên cơ sở yêu cầu đó, nhà Thanh đã cho mở cửa ải cho thương nhân người Hoa sang buôn bán; lập ra nhiều phố xá như Kì Lừa, Mục Mã, Hoa Sơn… và lập ra hai cửa hiệu Thái Hòa, Phong Thịnh để buôn bán. Nhờ chính sách mở cửa của Quang Trung, nhân dân hai nước tự do đi lại trao đổi buôn bán và nhiều thuyền buôn Trung Quốc đã đến Phú Xuân để giao thương

Theo tinh thần bớt thuế, thương dân, Hoàng đế Quang Trung đã cho thi hành một chế độ thuế khóa đơn giản, bãi bỏ và giảm nhẹ nhiều thứ thuế phức tạp trước đó. Các loại thuế đinh, thổ sản, công thương đều được giảm nhẹ hoặc bãi bỏ. Việc thông thương với Trung Quốc vùng biên giới được miễn thuế hoàn toàn. Thuế ruộng đất công, tư đều được triều đình xem xét phân hạng theo mức sản xuất hằng năm và chia hạng nộp thuế bằng lúa, hoặc có thể bằng tiền, tính theo thời giá. Hoàng đế Quang Trung còn có quy định thập vật tiền (tiền trả cho người đứng thu thuế), khoán khố tiền (tiền tồn kho) và mức thuế cụ thể. Ai thu vượt quá quy định sẽ bị xử vào tội tham nhũng. Ông còn cho đúc tiền mới để tiêu dùng...

Những bài học kinh nghiệm cho ngày nay

Các chính sách về kinh tế của Hoàng đế Quang Trung không chỉ đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng sau một thời gian dài nội chiến, đem đến cuộc sống ấm no, ổn định cho nhân dân, đặt nền móng cho một chế độ, một vương triều được dân chúng ủng hộ và hướng đến nhất mà còn góp phần nâng cao địa vị và uy tín của Đại Việt trong mối quan hệ với các nước trong khu vực đương thời. Đó là những bài học mà ngày nay chúng ta cần học hỏi

Thứ nhất, Hoàng đế Quang Trung rất coi trọng phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp. Ông ban “Chiếu khuyến nông” và giao trách nhiệm cho quan địa phương chia ruộng đất cho người dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn, nếu không làm được sẽ bị phạt tội, giáng chức. Ngày nay, chính sách nông nghiệp luôn được Đảng, Nhà nước chú trọng ban hành và đổi mới kịp thời với yêu cầu xã hội. Trong đó, tư tưởng quản lý của Quang Trung sẽ là những gợi ý quý báu cho lãnh đạo các địa phương trong giải quyết công ăn việc làm, cấp ruộng cho người dân từ thành phố trở về quê trong đại dịch Covid-19. Và nên chăng, chúng ta cũng cần đề cập đến trách nhiệm của người đứng đầu các địa phương về việc giải quyết vấn đề này như thế nào

Thứ hai, trong công nghiệp, chủ trương của Hoàng đế Quang Trung thể hiện ở sắc lệnh “Khoan thư sức dân” - bãi hoàn toàn thuế điệu cho nhân dân, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế công nghiệp. Ngày nay, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt đối với sản xuất công nghiệp, miễn giảm thuế cho DN. Tuy nhiên, hiện tượng thuế chồng thuế, phí chồng thuế vẫn còn diễn ra. Các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về tiền thuê đất, tiền sử dụng đất chưa đủ để khuyến khích DN mở rộng đầu tư phát triển những lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Việc thu đúng, thu đủ để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách luôn phải được tuân thủ, nhưng cũng cần căn cứ vào từng thời điểm, từng ngành nghề để đưa ra mức thuế hoặc điều chỉnh chính sách thuế cho phù hợp

Thứ ba, trong thương nghiệp, Hoàng đế Quang Trung thực hiện chính sách “mở cửa ải thông chợ búa” khiến hàng hóa không bị ngưng đọng, có lợi cho tiêu dùng của người dân, đẩy mạnh việc tiếp xúc với nền kinh tế tư bản phương Tây. Bài học “thông chợ búa” giúp nhân dân trong nước trao đổi mua bán sản phẩm của mình làm ra đã được áp dụng ở Việt Nam ngay giai đoạn sau năm 1986. Từ đó đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển...

Tuy nhiên, trong mối quan hệ giao thương với Trung Quốc, Việt Nam vẫn còn chưa thoát khỏi sự lệ thuộc về nguồn nguyên liệu cũng như thị trường của họ. Do đó, Việt Nam rất cần có biện pháp hữu hiệu để nâng cao sức mạnh kinh tế trong nước; cần xây dựng một “tư thế làm chủ” trong mối quan hệ giao thương với Trung Quốc theo quan điểm của Hoàng đế Quang Trung: “Tôi muốn khí dụng gì cũng chẳng phải mua của nước Tàu”

Riêng trong quan hệ giao thương với các nước phương Tây, Việt Nam đã và đang gặt hái nhiều thành công. Nếu thời Hoàng đế Quang Trung, mối quan hệ ấy chủ yếu chỉ với Hà Lan, Bồ Đào Nha thì đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã ký nhiều hiệp định hợp tác đa phương và song phương với nhiều quốc gia trên thế giới. Đảng và Nhà nước không những thực hiện được “hoài bão lớn lao” của Hoàng đế Quang Trung là “đẩy mạnh việc tiếp xúc với nền kinh tế tư bản phương Tây” mà còn đang đưa nền kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để có thể hội nhập và thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới chủ trương, chính sách cho phù hợp với xu thế chung, vừa phát huy hơn nữa “vị thế tự cường” như Hoàng đế Quang Trung đã thực hiện

Hoàng đế Quang Trung đã tạo được thế ba chân của ba ngành kinh tế nông - công - thương rất vững chắc. Ngày nay, Việt Nam cần tập trung thực hiện quyết liệt, sâu sắc hơn tái cấu trúc kinh tế theo ba trục là công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ - thương mại. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án lớn; ưu tiên các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp - nông thôn, sản xuất hàng hóa chủ lực quy mô lớn; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để thu hút đầu tư, phát triển DN. Phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp phụ trợ, tăng cường phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch. Nâng cao hiệu lực, siết chặt kỷ cương công tác quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực

TS NGUYỄN THỊ THU HÒA (Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh)
 
Vua Quang Trung với tư tưởng "Dựng nước lấy học làm đầu"

"Dựng nước lấy học làm đầu". Đó là ý tưởng nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung nói riêng và của triều đại Tây Sơn nói chung khi được thành lập trên cơ sở một phong trào nông dân rộng rãi chưa từng có trong lịch sử dân tộc

Công cuộc xây dựng đất nước sau chiến thắng giặc Mãn Thanh đặt lên vai người lãnh đạo đất nước. Vua Quang Trung đã chứng tỏ mình chẳng những là nhà lãnh đạo kiệt xuất của phong trào Tây Sơn mà còn tỏ ra có bản lĩnh lẫn tầm chiến lược trong việc xây dựng đất nước văn hiến sau chiến thắng

Mà nay áo vải cờ đào

Giúp dân dựng nước xiết bao công trình


Ngọc Hân công chúa đã khóc chồng bi thiết trong Ai tư vãn như vậy. Trong Ai tư Vãn, ngọc Hân công chúa so sánh công đức của vua Quang Trung với các vua Thang Võ, Nghiêu Thuấn - Là sự đánh giá rất cao về người anh hùng áo vải. Nhưng như thế chỉ với Nho giáo không thôi, Quang Trung không đủ sức để kiến tạo lại đất nước sau chiến thắng. Quang Trung đã tự trang bị cho mình một vốn tri thức, văn hóa mang ý nghĩa thiết thực

Khắc họa hình ảnh vua Quang Trung Nguyễn Huệ như là một thiên tài không ngừng tiến thủ, Ngô Thì Nhậm trong Bang giao hải thoại đã viết: " Quang Trung là người vốn tính ham học, dẫu trong can qua bận rộn cũng không quên giảng đạo lý. Ngày thường nghị luận ý tứ rành mạch, khơi mở nhiều điều mà sách vở ngày xưa chưa từng biết". Ở đây chúng ta chú ý đến tinh thần ham học hỏi và biết vận dụng tri thức sách vở vào thực tiễn của vua Quang Trung. Điều đó thật khác xa với nhiều kẻ sĩ được đào luyện dưới cửa Khổng, sân Trình. Bản thân Quang Trung cũng phải học văn hóa và lịch sử Việt Nam do một quan bí thư riêng "mỗi tháng sáu lần chầu để giảng giải kinh sách" nên ông khá am hiểu lịch sử và văn hóa Việt Nam

Hơn ai hết, Quang Trung nhận thức rất rõ vai trò của tri thức trong công cuộc xây dựng đất nước. Sau chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung đã dần dần để các văn thần nắm các chức vụ chủ chốt trong bộ máy chính quyền. Điều đó được nêu rõ trong Chiếu lập học và chiếu cầu hiền của nhà vua trong mục đích "văn trị" của công cuộc trị quốc. Chiếu cầu hiền nói rõ: "Dựng nước lấy học làm đầu, trị nước chọn nhân tài làm gốc... Trẫm buổi đầu dựng nghiệp, tôn trọng việc học, lưu tâm yêu mến kẻ sĩ, muốn có người thực tài ra sức giúp nước"

Việc làm cấp thiết của vua Quang Trung là tổ chức kỳ thi hương đầu tiên ở Nghệ An để tuyển chọn nhân tài do Nguyễn Thiếp làm chánh chủ khảo. Chiếu lên ngôi đã quy định: "Nho sinh và sinh đồ cứ đợi đến kỳ thi vào thi, hạng ưu thì tuyển vào, hạng kém thì bãi về trường xã học...". Như vậy, Quang Trung rất chú trọng đến chất lượng và tính thực tiễn của việc học "Học cho rộng, rồi ước lượng cho gọn, theo điều học biết mà làm". Đó là một thế hệ nhân tài, quan lại không chỉ có hiểu biết mà còn có khả năng làm việc thực sự để phục vụ vương triều, đất nước

Do yêu cầu như thế nên người dạy học phải đạt 2 tiêu chuẩn: Kiến thức và đức hạnh. Chiếu lập học nêu: "Chọn nho sĩ trong xã có đạo đức, hạnh kiểm, đặt làm thầy dạy, giảng tập cho học trò xã hội"

Thời vua Quang Trung, xã thôn đều có học xã chăm lo việc học. Có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử chế độ phong kiến, xã thôn có trường công lập. Còn ở kinh đô, văn miếu là học đường chính ở Bắc thành thường xuyên hoạt động đào tạo. Quang Trung giao cho Nguyễn Thiếp đảm đương chức vụ Viện trưởng viện sùng chính

Hàng loạt chính sách cải cách giáo dục đã được đưa ra cho phù hợp với xã hội mới như đề cao chữ Nôm, đưa chữ Nôm lên địa vị chính thức của dân tộc. Trong thi cử, Quang Trung bắt giám khảo ra đề bằng chữ Nôm, thí sinh làm bài bằng chữ Nôm. đây là lần đầu tiên nhà nước phong kiến đưa chữ Nôm vào thi cử. Đó là lòng tự tôn dân tộc trong văn hóa. Quang Trung thuận theo ý Nguyễn Thiếp để cải cách giáo dục về phương pháp: "Nước Việt ta từ khi lập quốc đến bây giờ, chính học lâu ngày đã mất đi. Người ta chỉ tranh đua tập việc học từ chương cầu lợi... Chúa tầm thường, tôi nịnh hót, quốc phá gia vong, những tệ kia ở đó mà ra", cho nên việc học "phải tuần tự mà tiến, đọc cho kỹ mà ngẫm nghĩ cho tinh, học cho rộng rồi ước lượng cho gọn, theo điều học biết mà làm họa may nhân tài mới có thể thành tựu, nước nhà nhờ đó mà vững yên"

Chính vì coi trọng việc học như vậy cho nên, một mặt chế độ giáo dục ấy ắt sẽ sản sinh ra những nhân tài biết đem công sức mình xây dựng đất nước (tiếc rằng nhà Tây Sơn tồn tại quá ngắn, chỉ 4 năm), mặt khác tập hợp được quanh mình những bậc hiền tài lỗi lạc đương thời như: Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở... Họ là những văn thần, võ tướng của cựu trào, thấm nhuần tư tưởng: "Trung thần bất sự nhị quân", nhưng họ thấy ở Quang Trung một tấm lòng thành chiêu hiền đãi sĩ, thật lòng muốn xây dựng đất nước, chăm lo cho trăm họ, chứ không thuộc loại vua chỉ biết vun vén, củng cố cho ngai vàng của mình

Thái độ tôn trọng việc học và nhân tài đất nước thể hiện từ trong bản chất, có ngay từ những ngày đầu, khi Quang Trung vào thành Thăng Long, và sau đó trong lời phê vào đơn của dân làng Văn Chương (Hà Nội) xin dựng lại những hàng bia đá ở Văn Miếu đã bị đổ vì chiến cuộc

Nay mai dọn lại nước nhà

Bia nghè lại dựng trên tòa nhân gian
 
Chiếu Cầu Hiền của Hoàng Đế QUANG TRUNG

Mùa xuân năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung. Điều đầu tiên ông quan tâm chính là xây dựng một nguồn nhân lực cho mình và cho sự tồn tại của đế chế còn non trẻ của mình. Trong “Chiếu lập học” ông viết rằng: “Xây dựng đất nước phải lấy việc dạy học làm đầu, tìm lẽ trị bình lấy tuyển nhân tài làm gốc ...”

CHIẾN LƯỢC CON NGƯỜI

Có thể thấy rằng, nét nổi bật trong toàn bộ đường lối kinh tế - xã hội của Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ chính là xây dựng một “chiến lược con người”. Nói cách khác, Nguyễn Huệ đã chuẩn bị ngay lập tức cho đế chế của mình một nguồn nhân lực có sẵn và đào tạo một nguồn nhân lực mới khác dành cho lâu dài nhằm để an dân, trị quốc và bình thiên hạ

Chiến lược và sách lược “dụng nhân” được vua Quang Trung thực hiện thông qua việc cải tổ hệ thống giáo dục, đồng thời xây dựng một chính sách rõ ràng, minh bạch đối với các tầng lớp trí thức trong xã hội thời bấy giờ. Ông rất quan tâm đến việc khai thác các tiềm năng trí tuệ để phục vụ đế chế - một chính quyền đang non trẻ trong một đất nước tồn tại nhiều phe phái, nhiều âm mưu tranh giành quyền lực giữa Đàng trong và Đàng ngoài. Chính quyền nhà Tây Sơn mới hình thành nhưng trong nước chưa có hòa bình thực sự, luôn phải cảnh giác đối phó với thù trong giặc ngoài

NỘI LỰC TỪ TẦNG LỚP TRÍ THỨC

Tuy vậy, khát vọng xây dựng một nhà nước hùng mạnh về mọi mặt đã thôi thúc vị lãnh tụ của phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn chú ý đến vai trò quan trọng của giới nho sĩ, trí thức trong nước. Vì vậy vua Quang Trung cho triển khai nhanh hệ thống giáo dục đến tận làng xã. Nếu như hiện nay chúng ta mới chỉ có Phòng giáo dục cấp huyện thì thời Tây Sơn cấp xã đã có một loại hình cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục gọi là “Nhà xã học”. Đây chính là mô hình rất mới của vua Quang Trung trong chiến lược nâng cao dân trí và chuẩn bị nguồn lực lâu dài để đào tạo, phát triển nhân tài, trí thức cho đất nước. Mặt khác, trước sự hùng mạnh, bách chiến bách thắng của nghĩa quân Tây Sơn, nhiều trí thức ở Đàng trong lo sợ bỏ chạy theo chúa Nguyễn Ánh. Còn ở Đàng ngoài, khi Quang Trung kéo quân ra Bắc lần thứ nhất cũng đã vấp phải sự chống đối kịch liệt của tầng lớp nho sĩ, trí thức chính thống. Bởi lẽ lúc đó quyền lợi của tầng lớp nho sĩ, trí thức ở Bắc Hà đang gắn liền với triều đình nhà Lê - Trịnh. Rất nhiều bậc nho sĩ tên tuổi thời ấy đã thà chết chứ không chịu đầu hàng, theo giúp Nguyễn Huệ. Chính điều này đã đặt ông vào hoàn cảnh rất khó khăn. Thế nhưng Nguyễn Huệ đã có quyết sách kịp thời. Đó chính là một nét độc đáo ngoài tài năng quân sự vô song của vị vua áo vải đất Tây Sơn - Bình Định

SỨC MẠNH HÒA HỢP

Trước tiên, Nguyễn Huệ xây dựng một chính sách không phân biệt đối xử với tất cả trí thức quan lại của triều đình cũ và mới. Ông khẳng định chủ trương đúng đắn của mình bằng một văn bản có tên là: “Chiếu dụ các quan văn võ triều cũ”. Trong đó có đoạn viết: “Trẫm một lòng yêu quý nhân tài không lúc nào quên ... Phàm những kẻ đang bị giam giữ trẫm đều tha ra hết, những người chạy trốn trẫm không truy nã nữa để làm rõ đức khoan dung …”. Có lẽ trước đó lịch sử chưa từng ghi nhận một cách làm chính trị nào hay hơn đối với giới trí thức nho sĩ thời ấy bằng chính sách khoan hồng đầy sức thuyết phục như vua Quang Trung đã từng làm

Trong thực tế đương thời, vị vua bình dân này đã thực sự làm phân hóa dần giới trí thức triều đình cũ. Tuy vậy, ông cũng hiểu thêm đặc điểm chung của họ là không chỉ cần sự ưu ái, khoan dung mà điều quan trọng đối với họ chính là được trọng dụng

Nguyễn Huệ đã giải được bài toán khó này, đồng thời ông còn hứa hẹn sẽ đặt đúng từng vị trí, sở trường của người trí thức trong chế độ mới hình thành của mình: “Trẫm đang để ý lắng nghe, thức ngủ mong mỏi tại sao những người tài cao học rộng chưa thấy đến, hay là trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng ...?”; hoặc “Trẫm nơm nớp lo nghĩ, dù một ngày, hai ngày cũng có đến hàng vạn sự việc nảy sinh. Ngẫm cho kỹ: Cái nhà to lớn, sức một cây cột không thể chống đỡ, sự nghiệp thái bình sức một người không thể đảm đang ...” (Chiếu cầu hiền)

TRỌNG DỤNG KẺ SĨ

Vua Quang Trung Nguyễn Huệ không chỉ là một nhà quân sự tài hoa lỗi lạc, ông còn là một người giỏi hoạch định chiến lược thu phục nhân tài, nhân tâm, nhằm phục hưng xây dựng đất nước. Một quốc gia từng bị chia cắt, bị kiệt quệ sau hơn 200 năm phân tranh Trịnh - Nguyễn. Quang Trung - Nguyễn Huệ đã rất thành công trong việc chinh phục trái tim kẻ sĩ. Ông đã tập hợp được số đông các người tài văn, võ thời bấy giờ đi theo mình. Đó là những Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tần, Bùi Dương Lịch ... Họ thực sự đã trở thành những hiền tài đến đầu quân dưới trướng Nguyễn Huệ và triều đại Tây Sơn

Tuy nhà Tây Sơn chỉ tồn tại không đến 15 năm nhưng những gì mà thiên tài Nguyễn Huệ để lại cho hậu thế vẫn là một nét son sáng chói trong lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc Việt Nam

NGUYỄN TẤN TUẤN
 
Last edited:
Top