Công nghệ sinh học Israel
Sự phát triển của công nghệ sinh học Israel chính là sự ứng dụng có định hướng, có tính sáng tạo cao và năng động và khả năng thích ứng với các công nghệ mới.
Israel chỉ đứng hàng thứ hai sau Hoa Kỳ về số công ty mới hoạt động. Các phát kiến và công nghệ mới đang được phát triển trong lĩnh vực Internet, thông tin, công nghệ sinh học và phần mềm. Có đến 80% trong số 3.000 công ty Israel trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển có tuổi đời ít hơn 10 năm.
Trước khi bắt đầu khám phá ngành công nghiệp công nghệ sinh học của Israel, việc hiểu được động lực nào đang thúc đẩy người dân Israel và giúp họ trở thành những người dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực công nghệ này là điều rất quan trọng.
Khi tốt nghiệp phổ thông, thanh niên Israel bắt đầu thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Với giới trẻ Israel, đây là điều được chấp nhận và có rất ít người lẩn tránh nghĩa vụ này. Nhiều thanh niên lại sử dụng những năm tháng trong quân ngũ để tạo một khởi đầu vững chắc cho tương lai sau này. Bởi có được những kinh nghiệm trực tiếp ở mức độ cao trong quá trình phục vụ, những người lính phục vụ trong các lĩnh vực đòi hỏi kỹ thuật tiên tiến khi giải ngũ đã có được những kỹ năng mà những người với trình độ đại học cũng phải rất nỗ lực mới có được. Nhiều doanh nhân thành đạt ở Israel đã từng là cựu binh trong các đơn vị kỹ thuật đó.
Một nhân tố khác cho những tiến bộ công nghệ của Israel là những thành công của nhiều công ty Israel trong thương mại. Nếu các công ty máy tính của Israel …
Cứ ba nhà khoa học Israel thì có một người chuyên về các ngành khoa học có liên quan đến cuộc sống thực tiễn. Xét về lực lượng lao động, Israel có số lượng tác giả cao nhất có các tác phẩm được xuất bản trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật, nông nghiệp và y học – đây là các môn nền móng cho ngành công nghệ sinh học. Sự đóng góp của Israel cho số các ấn phẩm hàn lâm về công nghệ sinh học chiếm tỷ lệ 1% lượng ấn phẩm của thế giới, trong khi dân số chỉ chiếm 1 phần nghìn.
Bởi khí hậu khắc nghiệt, nền nông nghiệp của Israel hầu như phải dựa vào việc nghiên cứu phát triển. Các kỹ thuật giống và gien đã giúp bò sữa của Israel trở thành quán quân thế giới về sản xuất sữa. Một dự án dài hạn về “xanh hóa sa mạc” đã tạo ra thêm nhiều công nghệ tưới tiêu có hiệu quả và các giống cây chịu hạn tốt.
Dường như ngành công nghệ sinh học của Israel đang trải qua một sự tăng trưởng nhanh chóng như đã từng có ở Hoa Kỳ.
Công nghệ sinh học ở Israel
Nền công nghiệp công nghệ sinh học của Israel đã trông đợi Cơ quan Kiểm soát Thực phẩm và Thuốc của Hoa Kỳ (FDA) cấp chứng nhận cho Lotemax, một loại thuốc tra mắt chống viêm nhiễm. Nó không chỉ là mốc quan trọng cho Pharmos, một công ty có trụ sở ở Israel và phát triển ra loại thuốc này, mà còn cho cả ngành công nghệ sinh học của cả Israel. Nhưng không ngờ hai tin vui đến cùng lúc khi FDA trong ngày 10/3 đã chứng nhận không chỉ thuốc Lotemax, mà cả một loại thuốc dùng cho mắt khác của Pharmos là Alrex. Alrex là một sản phẩm chống dị ứng dùng trong nhãn khoa để điều trị các chứng viêm màng kết dị ứng theo mùa (dị ứng đồng cỏ), một dạng thường gặp nhất của dị ứng nhãn cầu có ảnh hưởng tới khoảng 15% dân số. Cả hai loại thuốc này đều được tiếp thị bởi công ty lớn về các sản phẩm chăm sóc cho mắt là Bausch & Lomb.
Những sự kiện này là quan trọng cho toàn bộ ngành công nghệ sinh học của Israel, chỉ ra cho mọi người thấy rằng thời gian cho việc bán sản phẩm và thu lãi đang tới. Hiện có khoảng 100 mối quan tâm về công nghệ sinh học ở Israel theo số liệu của Ủy ban Công nghệ Sinh học Quốc gia của Israel, và Pharmos không phải là công ty công nghệ sinh học của Israel đầu tiên vượt qua được khâu kiểm định cuối cùng của FDA. Có hai công ty trước đó cũng đã làm được như vậy: đó là công ty BioTechnology General với sản phẩm hóc môn tăng trưởng dành cho người và công ty Teva Pharmaceuticals, với sản phẩm thuốc Copaxone chữa đa xơ cứng mô mềm. Nhưng Pharmos sẽ là công ty đầu tiên trong số các công ty thuộc thế hệ sau thành lập trong những năm 1990. Với họ, sự thành công của công ty Pharmos là một điềm tốt cho năm sắp tới trong đó nhiều công ty hy vọng đạt được các liên minh chiến lược chính, tạo điều kiện cho các liên minh IPO.
Nền công nghệ sinh học của Israel được nuôi dưỡng bởi lượng vốn liên doanh lớn từ Hoa Kỳ đổ vào. Những nguyên nhân chính của sự hấp dẫn đầu tư này là: Tiếng tăm cỡ quốc gia về một trình độ khoa học hàng đầu, việc nghiên cứu và phát triển bám sát nhu cầu thực tế và tài năng kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ khoa học đầu bảng ở đây nhằm nói đến các ý tưởng sáng tạo trong sinh-y học nảy nở từ các trường đại học trong nước, nơi các nhà nghiên cứu Israel duy trì được tỷ lệ các ấn phẩm y học trên đầu người cao nhất trên thế giới. Việc nghiên cứu và phát triển có hiệu quả chi phí ở đây là nói đến đội ngũ lao động tay nghề cao cấp, với số lượng tăng đáng kể trong đầu thập kỷ 90 do số các nhà khoa học nhập cư tới từ Liên Xô cũ, đã chứng tỏ khả năng thích nghi với việc chuyển nhanh các công nghệ từ phòng thí nghiệm ra tới các bệnh viện. Các chi phí cho khoa học và kỹ thuật ước chừng chỉ khoảng một phần ba chi phí của Hoa Kỳ. Và kỹ năng kinh doanh đã được ghi nhận của các công ty Israel chủ yếu thấy được từ những kết quả thành công mà các công ty Israel đã thực hiện được trong lĩnh vực công nghệ cao, nơi kết quả kinh doanh nhanh chóng nhận biết được. Các công ty Israel đang hoạt động buôn bán tại Phố Uôn nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trừ Canada. Sự kết hợp giữa các công ty liên doanh và các công ty công nghệ sinh học cũng được trợ giúp bởi ngành công nghệ cao của Israel. Các giám đốc công ty liên doanh thường có các chuyến viếng thăm Israel, nơi ngành công nghệ cao đang phát triển của quốc gia thường được xem như là Thung lũng Silicon thứ 2. Các công ty liên doanh này đã hưởng những khoản thu lời tốt từ các đầu tư trong những lĩnh vực như công nghệ Internet. Hiện ước lượng có khoảng 15% trong toàn bộ các công nghệ Internet mới là được phát triển ở Israel.
Các công ty công nghệ sinh học Israel có thể không chiếm tới 15% của nghiên cứu và phát triển thuốc trên thế giới, nhưng nhiều công ty liên doanh đang làm ăn trên bối cảnh là rất nhiều loại thuốc cuối cùng lại chứa bên trong các công nghệ phát triển bởi Israel. Một số công ty Israel đã thu hút được lượng vốn liên doanh đáng kể, trong số đó có công ty Peptor, thu hút được 25 triệu đô la đầu tư từ nhiều nhà đầu tư hơn bất kỳ các công ty tư nhân Israel nào khác, có thể kể ra như Walden Group, Rosthchild Asset Management, Biotechnology Investment Group và đại diện của hai công ty dược lớn nhất Israel. Công ty Peptor sử dụng hóa tổ hợp và công nghệ thiết kế bằng máy tính để tạo ra thư viện dữ liệu về các SCAPL (Các tương đồng nhỏ theo chu kỳ của các vòng Peptit) nhằm chữa một số bệnh, và đã hình thành liên minh với các công ty như Ares-Serono, Teva, Xoma, Neoprobe, và Mallinckrodt.
Công ty Compugen vừa qua được tờ thời báo tài chính Globes của Israel nêu lên như một công ty đáng noi theo trong năm 1998. Công ty này đã tăng được số vốn thêm 8,5 triệu đô la từ các nhà đầu tư trong số đó có cả Apax-Leumi Partners, Oppenheimer & Co, Venture Partners của Hoa Kỳ, và Seed Partners của Israel. Công ty này đã phát triển một diễn đàn thông tin sinh học bao gồm cả một công cụ tìm kiếm mạnh nhằm tách biệt các thông tin sản phẩm hàng đầu về thuốc khỏi các ngân hàng dữ liệu gen khổng lồ. Các sản phẩm của Compugen được cài đặt trong các cơ sở công ty và các viện như Merck, SmithKline Beecham, Eli Lilly, Bayer và Sanger Centre.
D-Pharm có khởi đầu với một ít vốn do chính phủ Israel cung cấp cho các công ty mới làm ăn năm 1993. Kể từ đó, công ty đã thu hút được hơn 8 triệu đô la trong quỹ tư nhân từ các nhà tư bản liên doanh trên thế giới. Trong số đó phải kể đến: Quỹ Gemini của Israel, các quỹ có trụ sở tại Hoa Kỳ như Quỹ Advent Venture, Walden Group, và Medmax Venture cũng như Quỹ tăng trưởng Israel Apax-Leumi có trụ sở tại Anh, và Vertex Group, một chi nhánh của tập đoàn Singapore Technologies. Công ty đang phát triển các thuốc chống động kinh, bảo vệ thần kinh và các thuốc khác, có sử dụng các công nghệ Kích hoạt phân tử có chọn lọc và Truyền dẫn (SMARt). Các công nghệ SMARt kích hoạt và dẫn thuốc tới các mục tiêu cần điều trị bằng cách sử dụng các hệ thống sinh học tự nhiên của cơ thể. Trước đó cũng trong tháng này D-Pharm đã có được Thông báo Cho phép từ Phòng Cấp bằng sáng chế và Nhãn hiệu hàng hóa của Hoa Kỳ cho sản phẩm hỗ trợ thuốc mới là axít valpoic với độ thâm nhập vào tế bào được tăng cường. Các nghiên cứu về động vật cũng cho rằng những thuốc này sẽ giúp cải thiện việc điều trị động kinh và các chứng thần kinh khác.
Trong khi đó, công ty XTL Biopharmaceuticals cũng thu hút được hơn 3 triệu đo la đầu tư từ Tập đoàn quản lý bất động sản Rothschild và một nhóm các quỹ đầu tư ở Israel bao gồm Medica, Inventech và Nitzarim. Công ty đang phát triển các dược phẩm sinh học có sử dụng hệ thống “Trimera” của mình – một con chuột có mang mô của người giúp phát triển các kháng thể vô tính đơn hoàn toàn dùng để chữa trị cho người, và cũng giúp các thuốc thích hợp được sàng lọc theo hiệu quả chữa các bệnh về vi rút, oncological, và tự miễn dịch. Một thuốc chống viêm gan B dựa trên chông nghệ này sẽ bước vào giai đoạn thử I và II trong năm 1998. XTL có các liên minh chiến lược với công ty Biochem Pharma của Canada và công ty Neoprobe. Nhiều công ty công nghệ sinh học mới nổi lên ở Israel hy vọng năm 1998 sẽ là năm họ sẽ đạt được các liên minh chiến lược chủ yếu. Với công ty Pharmos, nơi đang đẩy mạnh các thử nghiệm lâm sàng với các thuốc Lotemax và các thuốc về mắt khác qua một đối tác chiến lược với Bausch & Lomb, và năm tới hy vọng sẽ thực hiện được phần lớn các sản phẩm CNS của họ. Một trong số đó, sản phẩm dexanabinol, đã đang ở trong giai đoạn thử nghiệm II với các chấn thương vùng đầu nghiêm trọng. Cũng tương tự, D-Pharm rất lạc quan về việc kết thúc một vụ giao dịch với một nhà sản xuất chủ yếu về thuốc chống động kinh trong khi Compugen hy vọng tìm ra một kênh phân phối chính trong đấu trường các bệnh về gien.
Ngành công nghệ sinh học của Israel có thể không đạt thêm chứng nhận nào của FDA năm nay, nhưng có thể có được một hai giao dịch đối tác lớn vào bất kỳ lúc nào.
Công nghệ sinh học Israel đang phát triển thịnh vượng
Công nghệ sinh học của Israel từ lâu đã được biết tới như một địa chỉ tốt cho các đột phá trong khoa học. Nhưng một trong những tiêu đề lớn nhất của ngành này trong vài năm qua lại không có liên quan gì tới khoa học, mà lại liên quan tới tiền mặt. Đó là câu chuyện của 100 triệu đô la của nhà trùm đầu tư Clal Biotechnology Industries (CBI), cuối cùng đã trao cho ngành công nghệ sinh học Israel giúp ngành này có một sự thúc đẩy về tài chính ngay tại quê nhà. CBI bắt đầu đầu tư vào tháng 7 năm 1998 với một khoản ban đầu là 30 triệu đô la lấy từ chi nhánh công ty là Clal Industries and Investments có trụ sở tại Tel Aviv, một trong những tổng công ty công nghiệp lớn nhất Israel. Theo sau nó là những cam kết khác tổng trị giá 70 triệu đô la từ một nhóm các doanh nghiệp hàng đầu Ỉael, bao gồm Ngân hàng đầu tư Poalim ở Tel Aviv, Quỹ Challenge Venture ở Savyon, công ty Techno-Rov ở Tel Aviv và công ty Cayrex Private Equity ở Herzaliya.
Ảnh hưởng của CBI là quan trọng – và không phải là do thiếu đầu tư nước ngoài. Các nhà tư bản liên doanh như Quỹ Advent Venture và công ty Walden Group ở Hoa Kỳ, cùng với công ty Apax Partners ở Anh, yêu cầu có mặt nhiều hơn ở Israel, và nhiều lãnh đạo các quỹ quốc tế thường xuyên bay tới Tel Aviv. Tuy nhiên, việc thu hút được một tập đoàn tài chính lớn là một bằng chứng rõ ràng cho sự cuốn hút đầu tư do ngành công nghệ sinh học Israel tạo nên.
Chiến lược của CBI
Câu chuyện của CBI cũng rất thú vị bởi sự tiếp cận tươi mới của nó. Được lãnh đạo bởi ông David Haselkorn, cựu lãnh đạo của tập đoàn Bio-Technology General, CBI đầu tư bạo tay trái ngược với kiểu thận trọng mà các nhà đầu tư theo kiểu truyền thống trong ngành công nghệ sinh học vẫn thường làm. Thay vì đầu tư một số tiền nhỏ khởi đầu cho rất nhiều công ty mới khai sinh, CBI đầu tư với khối lượng lớn vào một vài chỗ chọn lọc ở cấp cao hơn. Trong mỗi cuộc đầu tư, CBI đóng vai trò nhà đầu tư dẫn đầu, cùng với sự đóng góp từ các thành viên tập đoàn của các nhóm khác. CBI đầu tư với mục đích trở thành một cổ đông chính và đảm bảo quyền ưu tiên với các lợi ích tương lai mà công ty sẽ có.
Món tiền khởi đầu đầu tiên của CBI là khoản đầu tư 10 triệu đô la vào công ty D-Pharm, một công ty phát triển các công nghệ về thuốc men có trụ sở ở Rehovot. Món đầu tư này đi cùng với 5 triệu đô la từ các nhà đầu tư trước đó của D-Pharm. Sau đó, vào tháng 12/1998, CBI tập trung một gói đầu tư trị giá 15 triệu đô la mua cổ phiếu của công ty Compugen, một công ty về thông tin sinh học có trụ sở ở Tel Aviv. CBI góp 8 triệu đô la, số còn lại là từ các thành viên tập đoàn và các nhóm khác.
Vào tháng 1/1999, CBI tập trung một gói đầu tư tổng trị giá 2,5 triệu đô la để mua cổ phiếu của một công ty mới hoạt động là NeuroSurvival Technologies ở Tel Aviv, một công ty phát triển các loại thuốc can thiệp vào quá trình apoptotic (tê liệt?). Số lượng đầu tư và giai đoạn khởi đầu của công ty là phần nhiều theo cung cách đầu tư công nghệ sinh học truyền thống, nhưng CBI biện bạch rằng “cơ hội này quá tốt nên không nỡ từ chối”.
Và hơn là hạn chế đầu tư của mình chỉ trong Israel, CBI còn có một tiếp cận quốc tế, hiện đang nhằm tới các công ty ở Châu Mỹ và Châu Âu có khả năng bắt đầu quan hệ làm ăn với một trong các công ty trong danh sách của CBI.
Điều gì đã khiến cho công ty Clal Industries, một tập đoàn làm ăn trong lĩnh vực sản xuất và điện tử, lại quyết định rằng công nghệ sinh học Israel là một sân chơi tốt? Một cái nhìn lướt qua những dữ liệu được ghi nhận của Israel sẽ cho ta một số manh mối.
Thế hệ thứ nhất
Trước hết, có những câu chuyện thành công xác thực.
Công ty Bio-Technology General, trụ sở chính ở Rehovot, với một cơ sở ở Hoa Kỳ, thành phố Iselin, bang New Jersey, là một trong những công ty sinh dược đầu tiên trên thế giới thấy được lợi nhuận, đăng ký doanh thu khoảng 78 triệu đô la năm 1998 và có thu nhập ròng là 18 triệu đô la.
Công ty Teva Pharmaceutical Industries ở Jerusalem doanh thu bỏ túi là hơn tỷ đô la năm 1998. Teva là nhà tiếp thị hàng đầu về các loại thuốc về gien ở Hoa Kỳ; nó cũng tạo ra doanh thu từ việc bán thuốc Copaxone chữa đa xơ cứng.
Các câu chuyện thành công khác nữa bao gồm công ty Biosense ở Haifa, một nhà phát triển công nghệ tim mạch (myocardinal). Công nghệ này được công ty Johnson & Johnson đặt hàng năm 1997 với hơn 400 triệu đô la, và công ty Medinol ở Tel Aviv, người sáng chế ra “stent” – một lò xo thép được cấy vào tim để tránh phải phẫu thuật dùng tim nhân tạo. Với Tổng công ty Boston Scientific, giờ đang tiếp thị hơn 100 triệu đô la sản phẩm stent của Medinol trong một quý, thì công ty Medinol hiện có trị giá trong khoản từ 1,5 tới 2 tỷ đô la.
Một công ty khác cũng đang tiến rất nhanh là Pharmos Corp., có trụ sở ở Rehovot và Iselin, New Jersey. Pharmos đã có hai loại thuốc được FDA chứng nhận là Lotemax và Alrex có bán ở các nhà thuốc ở Hoa Kỳ dưới nhãn mác của Bausch & Lomb va một hồ sơ nữa đang đợi được chứng nhận trong năm nay cho một loại thuốc mắt thứ ba, là LE-Tobramycin, thuốc này đã qua giai đoạn thử nghiệm lâm sàng. Pharmos cũng đã hoàn thành giai đoạn thử nghiệm II với thuốc Dexanabinol, một loại thuốc có tiềm năng thành công cho các tổn thương ở não, là một hợp chất tương tự như thành phần hoạt tính của Marijuana. (xem “Công nghệ sinh học ở Israel”, trong hồ sơ lưu của Signal, để có thêm thong tin về các công ty công nghệ sinh học Israel “thế hệ đầu tiên”.)
Các ngôi sao đang nổi
Tuy nhiên, các công ty công nghệ sinh học ban đầu đó cùng những thành công của họ mới chỉ là sự khởi đầu của câu chuyện công nghệ sinh học của Israel. Còn thêm nhiều công ty khác nữa đang theo sát chân của họ, bao gồm những công ty sau:
Công ty Peptor: Có trụ sở ở Rehovot, công ty có nguồn tài chính tốt và đã phát triển một chất tương tự như Protein 60, tên là DiaPep 277, hiện đang giai đoạn II thử nghiệm để ngừa tiểu đường tuýp I. Nhưng điều gây thú vị quanh những thử nghiệm này còn được nhân đôi: DiaPep 277 về thực chất là vượt trội hơn tất cả các thuốc cạnh tranh, và có cơ hội là công nghệ này có thể được áp dụng rộng rãi cho các bệnh về tự miễn dịch và viêm nhiễm. Nếu vậy nó sẽ mở rộng cửa tới các thị trường của các bệnh viêm khớp mãn, đa xơ cứng và đào thải mô ghép, và một số bệnh khác nữa.
Một thuốc khác của Peptor là Somatoprim, một chất tương tự (receptor-specific) của hóc môn somatostatin, sắp bước vào các thử nghiệm giai đoạn I để chữa tiểu đường Nephropathy. Thuốc này được phát triển có sử dụng công nghệ độc quyền của hãng để tạo ra các thành phần tương tự theo chu kỳ của các vòng peptide nhỏ, là chất tạo thành các thành phần hoạt tính sinh học của các protein và peptide. Peptor dựa vào vốn 45 triệu đô la từ các nhà đầu tư bao gồm Tập đoàn đầu tư công nghệ sinh học, Quỹ Walden của Israel, hãng Công nghiệp và dược phẩm Teva, Công ty quản lý liên doanh Techno và công ty Alpinvest International.
Công ty D-Pharm: Công ty này trước đó đã hoàn thành một nghiên cứu giai đoạn I về thuốc DP-VPA, một chiết xuất hàng đầu của loại thuốc axít Valproic đang được đánh giá cao, đang bao quát 30% thị trường thuốc chống động kinh. D-Pharm có vị trí như là một người dẫn đầu tiềm năng trong lĩnh vực tái công nghệ các thuốc có gốc lipid, và có một đường dẫn đa dạng bao gồm các loại thuốc dành cho các lĩnh vực điều trị không tiếp cận được trước đây, như điều trị đột quỵ cấp tính. Công ty đã thu hút được 23 triệu đô la từ các nhóm đầu tư như CBI, Quỹ Advent Venture, Quỹ quản lý vốn liên doanh Gemini, các công ty Walden Group, Apax Partners, Vertex Group và Medmax Venture.
Công ty công nghệ sinh học Proneuron: Có trụ sở ở Ness-Ziona, công ty này đang bước vào các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I với một phương pháp điều trị có thể mang tới hy vọng cho các nạn nhân bị tổn thương xương sống, hiện vẫn chưa có thuốc trị. Năm nay, các bệnh nhân mới bị liệt ở hai trung tâm y tế ở Israel sẽ là người đầu tiên trên thế giới được điều trị với phương pháp điều trị tế bào nhằm tái tạo các mô dây sống bị tổn thương. Trên thực tế, ngay tuần này, cơ quan FDA của Hoa Kỳ đã chứng nhận cho thử nghiệm này. Công ty Proneuron có một kiểu trị liệu thần kinh tăng cường với các công nghệ dựa trên cơ sở các tế bào T được hoạt hóa cho chất bảo vệ thần kinh CNS và một phân tử ngăn miễn dịch nhỏ được áp dụng để chống lại các bệnh tự miễn dịch. Khoảng 7 triệu đo la đã được đầu tư vào công ty từ Tập đoàn đầu tư Hudson và một nhóm các công ty liên doanh của Israel.
Công ty Compugen: Mảng cạnh tranh của công ty thông tin sinh học này ở trong lĩnh vực phát triển thuật toán, và tìm những con đường tốt nhất để hiểu được các dữ liệu dạng EST (expressed sequence tag). Compugen đã nhận dạng được hàng ngàn gien mới ở người và các biến thể kết hợp thay thế của các gien đã biết. Công ty có một nỗ lực nghiên cứu gien trị giá nhiều triệu đô la tiến hành với vụ Parke-Davis của công ty Warner-Lambert, hợp đồng ký kết tháng 12/1998. Các bộ gia tốc phần cứng và các sản phẩm phần mềm phân tích chuỗi đã được cài đặt tại hơn 50 cơ sở nghiên cứu thuốc. Vừa qua, công ty Compugen đã bắt đầu phê chuẩn chức năng của các gien mới phát hiện, với mục đích cuối cùng là cấp giấy phép các gien đã được phê chuẩn cho các nhà dược phẩm lớn.
Sự gia tăng mạnh của các công ty mới thành lập
Và giờ có rất nhiều công ty mới thành lập. Israel chỉ đứng thứ hai sau Hoa Kỳ về tổng số các công ty công nghệ mới thành lập trong mỗi năm và là một nguồn phát minh khoa học dồi dào. Với tỷ lệ 1/3 số nhà khoa học Israel là chuyên về các khoa học về cuộc sống, nên các phát kiến sinh-y học có rất nhiều. Các công ty mới thành lập được nuôi dưỡng bởi các sáng kiến của chính phủ, bao gồm cả các trợ cấp hào phóng từ Văn phòng Khoa học Trưởng thuộc Bộ Công nghiệp và Thương mại. Các trợ cấp này đã giúp các trung tâm nuôi dưỡng kinh doanh nổi lên cùng với các viện nghiên cứu có tiếng trên thế giới như Viện Weizmann, Trường Đại học Tel Aviv và trường Đại học Hebrew.
Các công ty mới thành lập còn hưởng lợi từ khoản 110 triệu đô la thuộc Quỹ Phát triển Nghiên cứu Công nghiệp song phương giữa Hoa kỳ và Israel. Quỹ này đổ hàng triệu đô la chi phí ngoài dự toán vào nghiên cứu và phát triển hàng năm. Nước Anh vừa qua cũng đã thiết lập một quỹ tương tự với số tiền 15,5 triệu bảng Anh với dự định cấp tài chính cho các dự án nghiên cứu và phát triển với các công ty Anh và Israel có hợp tác làm ăn song phương. Trong buổi ký kết hiệp định, Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Anh có nói: “Israel có lẽ có được mật độ các nhà khoa học và chuyên gia công nghệ đông nhất trên thế giới.”
Một số công ty mới đáng được quan tâm
Công ty Sol-Gel Technologies: Công ty này thành lập tháng 11/1997 với khoảng 1 triệu đô la tiền vốn ban đầu từ quỹ Evergreen Canada-Israel Fund và các nhà đầu tư Israel khác. Sol-Gel đã phát triển một công nghệ giúp các phân tử hữu cơ, vô cơ và sinh-hữu cơ được bọc trong những hạt thủy tinh silica rất nhỏ ở nhiệt độ phòng, làm đường cho một thế hệ mới các sản phẩm y tế, mỹ phẩm và thực phẩm. Sản phẩm đầu tiên của công ty là một loại kem chống nắng an toàn hơn và hiệu quả hơn, hy vọng sẽ có mặt trên thị trường vào năm 2001.
Công ty Carbozyme NT: Công ty Carbozyme có trụ sở ở Modi’in, đặt mục tiêu chinh phục một trong những giới hạn lớn nhất của những khám phá về thuốc – đó là các loại thuốc có liên quan tới glycerin. Công ty này mới thành lập đầu năm nay đã phát triển một dữ liệu và công nghệ Glycomics độc quyền nhằm sàng lọc hiệu quả hơn các tập hợp carbon hydrat phức tạp. Công ty Carbozyme nhận dạng các phản ứng qua lại giữa carbon hydrat và protein giúp phát hiện các mục tiêu và truyền dẫn của thuốc.
Công ty Natural Compounds: Công ty mới thành lập ở Oranim, đang phát triển các thuốc uống chống tiểu đường có sử dụng độc quyền các thành phần chiết xuất từ các nguồn men và thực vật. Các nghiên cứu tiền lâm sàng của các sản phầm này ở động vật cho thấy một mức độ hiệu quả cao trong việc giảm lượng glucose và lipid trong máu, qua đó giảm được độ phụ thuộc vào insulin. Một nghiên cứu lâm sàng ở người sẽ được lên kế hoạch trong năm sau. (Công ty Natural Compounds có thể liên hệ qua email:
mirsky@infolink.net.il )
Công ty CellStain Technologies: Công ty mới này được thành lập ở Rehovot năm 1997, đã phát triển một phương pháp kỹ thuật cao giúp chẩn đoán ung thư hiệu quả và chính xác hơn, chất lượng cao hơn các kỹ thuật như vết Pap. CellStain đã phát triển thứ mà công ty tuyên bố là quá trình lịch sử-hóa học đầu tiên có thể phân biệt các tế bào ung thư với các tế bào thường qua phương pháp nhuộm khác biệt. Trong một quá trình 15 phút, các tế bào thường được nhuộm xanh còn các tế bào ác tính chuyển thành đỏ. Kỹ thuật này có tầm quan trọng đặc biệt cho việc chẩn đoán ung thư của các nhà bệnh lý học khi mà các điều kiện bệnh lý của các tế bào không bị bệnh có thể trông tương tự như các tế bào ác tính trong các mẫu sinh thiết và cytological. Các nghiên cứu thử nghiệm cho thấy phương pháp của CellStain tóm được các tế bào ác tính mà các phương pháp thông thường khác bị bỏ qua (Công ty CellStain Technologies có thể liên hệ qua email:
cellstai@netvision.net.il )
Công ty Công nghệ tiên tiến M.T.R.E: Được thành lập năm 1998, công ty này có trụ sở ở Caesarea. Ở gần khán trường La Mã cổ đại, MTRE đang phát triển sản phẩm Allon, một thiết bị sinh-y học trong tương lai có thể trở thành một phần tiêu chuẩn của phẫu thuật hiện đại. Allon là một hệ thống điều hòa nhiệt có sử dụng vi tính giúp giữ nhiệt độ cơ thể ở mức bình thường. Khi được sử dụng trên các bệnh nhân đang phải trải qua gây mê toàn bộ, thiết bị này giúp ngăn sự giảm thân nhiệt, giảm thiểu nguy cơ tử vong và rút ngắn thời gian hồi tỉnh. Allon còn có thể đóng vai trò thiết yếu trong việc giảm sốt cao, đặc biệt ở các bệnh nhân trong hồi sức cấp cứu. Thiết bị này đang đợi công nhận của FDA trong năm 2000.
Cho dù có khó khăn về xa cách địa lý đối với các trung tâm công nghệ sinh học và dược phẩm chính ở Châu Âu và Hoa Kỳ, công nghệ sinh học của Israel vẫn khắc phục được các trở ngại về địa lý với một sự bộc lộ mạnh mẽ - một số người nói là rất năng động – các ý tưởng, công nghệ và nhạy bén tài chính. Sự toàn cầu hóa ngày càng tăng của ngành công nghệ sinh học và y tế đã tạo cho Israel một ưu thế và hứa hẹn sẽ làm cho nền công nghệ sinh học của Israel có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn trong tương lai.